theo dòi khoản vay, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro chưa kịp thời và chính xác.
5.1.1.3. Tỷ số hiệu quả hoạt động
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ số hiệu quả hoạt động tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu tăng trung bình 1,91% trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014. Các nghiên cứu của Berger và DeYoung (1995) và Chaibi và Ftiti (2014) trong một số trường hợp cũng có kết quả tương tự. Các NHTM kiểm soát chi phí không hiệu quả, tồn tại sự yếu kém trong khâu thẩm định khoản vay, quản lý, kiểm tra sử dụng vốn vay và giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Mặt khác, khi các điều kiện tự nhiên hoặc các trường hợp bất ngờ xảy ra mà bản thân các NHTM không lường trước được sẽ khiến cho các NHTM hao tốn một khoản chi phí để khắc phục các hậu quả không lường trước được này. Chính điều này đã làm cho hoạt động của NHTM không hiệu quả và góp phần làm gia tăng RRTD.
5.1.1.4. Tác động đòn bẩy
Các nghiên cứu của Chaibi và Ftiti (2014) đều cho rằng, mối quan hệ giữa tác động đòn bẩy và tỷ lệ nợ xấu là cùng chiều. Tuy nhiên, trong điều kiện các NHTM ở Việt Nam lại cho ra một kết quả ngược lại. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tác động đòn bẩy gia tăng 1% thì tác động làm cho tỷ lệ nợ xấu giảm trung bình 2,19% trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014, ảnh hưởng này không lớn. Trong một chừng mực nào đó, nếu các NHTM quản trị tốt cấu trúc vốn của mình, không để cho xảy ra tình trạng mất cân đối vốn thì khả năng chi trả của các NHTM vẫn còn đáp ứng, do đó tỷ lệ nợ xấu của các NHTM vẫn được đảm bảo.
5.1.1.5. Thu nhập ngoài lãi
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Kinh Tế Vĩ Mô Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Từ Năm 2007 Đến Năm 2014
- Phương Pháp, Dữ Liệu Và Kết Quả Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Đặc Trưng Ngân Hàng Và Kinh Tế Vĩ Mô Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân
- Kết Luận Và Giải Pháp Nhằm Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Đóng Góp Mới Của Đề Tài, Hạn Chế Của Đề Tài Và Gợi Ý Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Ảnh hưởng của các yếu tố đặc trưng ngân hàng và kinh tế vĩ mô đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 13
- Ảnh hưởng của các yếu tố đặc trưng ngân hàng và kinh tế vĩ mô đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Việc các NHTM đa dạng hóa hoạt động của mình sẽ góp phần giúp cho năng lực cạnh tranh được củng cố cũng như gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Kết quả hồi quy cho thấy mối quan hệ giữa thu nhập ngoài lãi và tỷ lệ nợ xấu là cùng chiều.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ thu nhập ngoài lãi gia tăng 1% sẽ tác động làm cho tỷ lệ nợ xấu gia tăng 0,14% trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014, tác động này rất nhỏ. Tuy nhiên, kết quả hồi quy này lại không có ý nghĩa trong trường hợp ở Việt Nam và kết quả này cũng tương tự cho kết quả nghiên cứu của Chaibi và Ftiti (2014).
5.1.1.6. Khả năng sinh lợi
Khi các NHTM quản lý yếu kém hoạt động kinh doanh, không kiểm soát rủi ro tốt sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và từ đó làm cho tỷ lệ nợ xấu của các NHTM gia tăng. Biến khả năng sinh lợi thỏa kỳ vọng về dấu, có nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi khả năng sinh lợi gia tăng 1% sẽ làm cho tỷ lệ nợ xấu giảm trung bình 0,87% trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014 và hoàn toàn phù hợp với các kết quả nghiên cứu của Chaibi và Ftiti (2014) và Louzis và cộng sự (2010). Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, biến này không có ý nghĩa thống kê.
5.1.2. Ảnh hưởng của các biến kinh tế vĩ mô đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
5.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP thực của năm trước
Tốc độ tăng trưởng GDP thực phản ánh được thực trạng tình hình tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng, hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế gặp nhiều thuận lợi, hoạt động ngân hàng cũng vì thế mà hạn chế được rủi ro do không gặp phải vấn đề mất năng lực chi trả từ khách hàng. Mặt khác, trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014 chứng kiến nhiều sự biến chuyển trong nền kinh tế Việt Nam bằng việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO, điều này càng thúc đẩy cho nền kinh tế Việt Nam tiếp thu được những nền văn minh hiện đại trên thế giới và học hỏi được những kỹ năng quản trị trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, hầu hết các chính sách kinh tế vĩ mô tác động đến nền kinh tế có một độ trễ nhất định và việc kiểm định mô hình cho thấy mối tương quan âm giữa tốc độ tăng trưởng GDP thực
của năm trước và tỷ lệ nợ xấu là hoàn toàn phụ hợp với tình hình kinh tế Việt Nam (hệ số giữa tốc độ tăng trưởng GDP thực của năm trước và tỷ lệ nợ xấu là - 0,699037). Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trước đây của Louzis và cộng sự (2010) và Castro (2013).
5.1.2.2. Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu, biểu hiện ở việc tỷ lệ lạm phát tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu tăng trung bình 10,28% xét trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014 và trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Nghiên cứu của Farhan, Sattar, Chaudhry và Khalil (2012) cũng ủng hộ kết quả này. Trên thực tế, khi lạm phát gia tăng, đồng nghĩa với việc chỉ số giá của hàng loạt các mặt hàng trong nền kinh tế tăng lên, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp do chi phí phục vụ cho hoạt động kinh doanh tăng lên đáng kể, ngoài ra lãi suất các NHTM cũng gia tăng theo tác động của lạm phát càng làm gia tăng gánh nặng nợ nần cho các doanh nghiệp, điều này khiến các khách hàng đi vay gặp rất nhiều áp lực trong việc thanh toán nợ vay ngân hàng, từ đó làm cho RRTD của ngân hàng gia tăng.
5.1.2.3. Tỷ lệ thất nghiệp
Hầu hết tất cả các nghiên cứu trên thế giới đều ủng hộ kết quả cho rằng tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ nợ xấu có mối quan hệ cùng chiều, khi tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế gia tăng sẽ tác động làm cho tỷ lệ nợ xấu của các NHTM gia tăng. Tuy nhiên trong điều kiện ở Việt Nam và cụ thể là phân tích ở 25 NHTM cho thấy, mối quan hệ này là ngược chiều và kết quả hồi quy có ý nghĩa thống kê, cụ thể là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng 1% thì sẽ có tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu trung bình của các NHTM 103,61% xét trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014. Trong một chừng mực nào đó, mối quan hệ này vẫn có thể chấp nhận được bởi vì khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thông qua hiệu ứng đường cong Phillips sẽ tác động làm cho tỷ lệ lạm phát gia tăng. Một mặt như phân tích ở trên, tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu nhưng
theo các nghiên cứu của Chaibi và Ftiti (2014) và Zribi và Boujelbène (2011), kết quả nghiên cứu vẫn chấp nhận kết quả là tỷ lệ lạm phát và RRTD có mối quan hệ ngược chiều.
5.1.2.4. Tỷ giá hối đoái
Kết quả hồi quy cho thấy, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ giá hối đoái tăng 1% chỉ làm cho tỷ lệ nợ xấu giảm trung bình 0,000267% trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014. Mối quan hệ này là ngược chiều và các nghiên cứu của Zribi và Boujelbène (2011) cũng ủng hộ kết quả này. Một NHTM trong mối quan hệ với các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu nhộn nhịp sẽ thấy rất rò tác động của tỷ giá hối đoái này. Mặc dù tỷ giá hối đoái của Việt Nam theo cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng việc quản lý này vẫn còn nhiều bất cập do không bắt kịp với xu hướng biến động quá nhanh của thị trường ngoại hối. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, thì đồng nội tệ sẽ tăng giá nếu ở trường hợp Việt Nam. Điều này sẽ khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu, cải thiện được cán cân thương mại của nền kinh tế. Chính hoạt động xuất nhập khẩu đa dạng này sẽ giúp ích rất nhiều cho các doanh nghiệp trong việc tạo ra nguồn thu dồi dào, từ đó sẽ không tạo áp lực trong việc thanh toán các khoản nợ vay ngân hàng, góp phần giúp cho các NHTM hạn chế được RRTD.
5.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
5.2.1. Nhóm các giải pháp thuộc về các yếu tố đặc trưng ngân hàng
5.2.1.1. Tuân thủ các quy định về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Kết quả mô hình hồi quy trên cho thấy, tỷ lệ dự phòng RRTD và nợ xấu có mối quan hệ cùng chiều nên các NHTM cần xác định chính xác về chất lượng tín dụng của ngân hàng, xác định đúng quy mô và đối tượng khách hàng vay cũng như phân loại nợ và trích lập dự phòng RRTD một cách khách quan và trung thực, không cố tình che đậy nợ xấu của ngân hàng để thực hiện những chính sách ưu đãi
cho khách hàng nhằm đem lại lợi nhuận cao. Các NHTM cần phát triển khách hàng để nâng cao thị phần và giữ vững mức độ cạnh tranh, bên cạnh đó các NHTM cần phải chú trọng vào chất lượng tín dụng, tránh chạy theo lợi nhuận mà đẩy mạnh cho vay đối với những đối tượng hạn chế cấp tín dụng, những đối tượng khách hàng không có năng lực tài chính lành mạnh.
Các NHTM cần quán triệt và trung thực trong việc áp dụng Thông tư 02/2013/TT-NHHH ngày 21/01/2013, có hiệu lực từ ngày 01/06/2014 trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng RRTD. Trên thực tế, vẫn còn nhiều ngân hàng xếp hạng doanh nghiệp không khách quan, không căn cứ vào tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng đã xếp hạng doanh nghiệp ở những mức điểm khá cao, phân loại vào nợ nhóm 1 để tránh ảnh hưởng xấu đến lịch sử hoạt động của doanh nghiệp cũng như góp phần làm hạn chế chi phí của Ngân hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chính những điều này đã làm cho các NHTM tiềm ẩn RRTD, ảnh hưởng đến tính “an toàn” trong quá trình hoạt động kinh doanh. Do đó, các NHTM cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, nên chấp nhận giảm lợi nhuận do việc trích lập dự phòng vì đây sẽ là những khoản tiền được sử dụng để xử lý những khoản vay khi bị phát sinh nợ xấu, tránh để Ngân hàng rơi vào khủng hoảng bởi nợ xấu quá nhiều cũng như vượt quá sức chịu đựng thanh khoản.
5.2.1.2. Kiểm soát chi phí hợp lý
Các NHTM cần phải quan tâm đến vấn đề kiểm soát chi phí hoạt động để đem lại cho Ngân hàng hiệu quả hoạt động cao nhất cũng như hạn chế RRTD xảy ra. Theo như kết quả phân tích trong chương 4, việc kiểm soát chi phí kém hiệu quả đã ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng và làm gia tăng RRTD. Các NHTM thường không theo dòi chặt chẽ danh mục cho vay, cũng như không giám sát nguồn lực để kiểm soát khoản vay do đó tác động làm cho RRTD tăng lên. Mặt khác, với những tác động từ môi trường bên ngoài mà bản thân các NHTM không lường trước được cũng sẽ phải khiến cho các NHTM tốn một khoản chi phí để khắc phục chúng nhằm hạn chế RRTD. Do đó, các NHTM cần đẩy mạnh việc kiểm soát
chi phí một cách hợp lý, gắn với hiệu quả kinh doanh và hạn chế RRTD trong hoạt động Ngân hàng.
5.2.1.3. Hoàn thiện quy trình quản lý rủi ro tín dụng, quy trình cấp tín dụng, chính sách cấp tín dụng đối với từng đối tượng khách hàng
Hoàn thiện quy trình quản lý rủi ro tín dụng
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã đưa nhiều nhiều quy tắc để quản trị RRTD trong đó nhấn mạnh các NHTM cần có những chiến lược, chính sách, quy trình nhận dạng, đo lường và kiểm soát rủi ro một cách hiệu quả. Trong hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, do đó việc các NHTM xây dựng một bộ quy chuẩn để hoàn thiện việc quản lý RRTD là rất cần thiết. Mặt khác, đối với các NHTM, mục tiêu của việc cấp tín dụng cho khách hàng là thu hồi được đầy đủ cả nợ gốc và nợ lãi mà quên đi việc tập trung quá nhiều vào việc cho vay một đối tượng khách hàng, một lĩnh vực, ngành nghề cũng sẽ có rất nhiều rủi ro xảy ra. Đây là dạng rủi ro danh mục và hầu hết các NHTM thường gặp phải. Các NHTM thường tập trung vào việc cho vay bất động sản do thị trường bất động sản đang sôi động mà lơ là đi các lĩnh vực khác cũng sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh cho NHTM, do đó khi thị trường bất động sản bị đóng băng, hàng loạt các TCTD đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý các khoản nợ xấu do việc tập trung cho vay quá mức vào lĩnh vực này. Hay việc tập trung và một hoặc một nhóm khách hàng chủ lực để đẩy mạnh tiếp thị, cho vay vượt mức đã làm cho rủi ro của ngân hàng gia tăng. Do đó, để hạn chế RRTD cho ngân hàng, các NHTM cần xây dựng một hệ thống giám sát chất lượng của danh mục cho vay phù hợp với đặc điểm và tính chất phức tạp của hoạt động cấp tín dụng, tích cực vận dụng những quy chuẩn của thế giới, đặc biệt là Basel II, III vào việc quản trị rủi ro của ngân hàng; đa dạng hóa danh mục đầu tư, tránh đầu tư tập trung “bỏ trứng vào cùng một rổ”. Việc giám sát chất lượng và hoàn thiện tốt quy trình quản lý rủi ro sẽ giúp cho các NHTM quản lý hiệu quả hơn cũng như nhìn nhận được những rủi ro tiềm ẩn, từ đó các NHTM có thể đưa ra nhiều giải pháp kịp thời để hạn chế RRTD cho ngân hàng.
Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đóng một vai trò quan trọng đối với các NHTM trong quá trình đánh giá khách hàng cũng như đánh giá được mức độ rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng. Thông qua một bộ tiêu chuẩn và chỉ tiêu được NHNN phê duyệt, các NHTM thường xuyên đánh giá, xếp loại khách hàng để có những ứng xử phù hợp và có chính sách phát triển khách hàng hợp lý. Do đó, các NHTM cần tiếp cận với nhiều bộ quy chuẩn quốc tế, xây dựng hệ thống chỉ tiêu chấm điểm theo hướng hiện đại, ứng dụng Basel II, III trong việc xác định các chỉ tiêu xếp hạng khách hàng nhằm đánh giá khách hàng một cách khách quan và chính xác nhất. Trên cơ sở dựa trên những thông tin khách hàng cung cấp, các NHTM cần đánh giá tính trung thực và chính xác của thông tin cũng như căn cứ vào các BCTC, tham khảo thông tin trên CIC, các TCTD khác, … để có cách chấm điểm phù hợp nhất, phản ánh chính xác năng lực của khách hàng vay, từ đó giúp cho các NHTM nhìn nhận đúng hơn về khách hàng và góp phần làm hạn chế nợ xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM.
Hoàn thiện quy trình cấp tín dụng
Để đảm bảo đưa hoạt động của NHTM đi theo đúng mục tiêu đã đề ra cũng như đảm bảo hoạt động ngân hàng được hiệu quả, an toàn và tăng trưởng bền vững, các NHTM cần xây dựng và hoàn thiện quy trình cấp tín dụng theo hướng hiện đại, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Các NHTM cần xây dựng quy trình tín dụng cụ thể đến từng ngành nghề, từng sản phẩm, từng đối tượng khách hàng,… để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng và có những giải pháp kịp thời khi phát hiện trong việc cấp tín dụng cho ngành nghề, sản phẩm và đối tượng khách hàng nào xảy ra rủi ro và gây bất lợi cho hoạt động ngân hàng. Một ngân hàng có một quy trình tín dụng chặt chẽ, cụ thể sẽ giúp cho việc kiểm soát hoạt động rủi ro tốt hơn, góp phần nâng cao năng lực quản trị và đem lại hiệu quả kinh doanh cao.
Hoàn thiện chính sách cấp tín dụng đối với khách hàng
Hoàn thiện chính sách cấp tín dụng cho khách hàng là rất cần thiết trong việc quản lý khách hàng cũng như phát triển khách hàng được tốt hơn. Các NHTM cần xây dựng chính sách khách hàng hợp lý, gắn với mức xếp hạng tín nhiệm khách
hàng để đưa ra những ưu đãi về lãi suất, cơ chế vay vốn linh hoạt và hiệu quả, cũng như hạn chế được những rủi ro xảy ra trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng. Các TCTD cần đẩy mạnh và duy trì nền khách hàng tốt, có năng lực tài chính lành mạnh và khả năng quản lý hiệu quả. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cần đa dạng hóa nền khách hàng, phát triển những đối tượng khách hàng khác như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình, … để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro và mang lại hiệu quả hoạt động cho các NHTM.
5.2.1.4. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng
Hoạt động ngân hàng luôn đòi hỏi sự chuyên nghiệp và sự rò ràng, minh bạch. Do đó, yêu cầu về chất lượng chuyên môn công việc và đạo đức nghề nghiệp luôn được các NHTM chú trọng và là yếu tố tiên quyết quyết định đến sự thành công của các NHTM. Một NHTM có nguồn nhân lực yếu kém về chất lượng và đạo đức nghề nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến khả năng quản trị điều hành mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Các NHTM cần phải ý thức tới từng cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng vấn đề về “rủi ro đạo đức”, ý thức cho cán bộ thấy rằng năng lực bản thân người cán bộ và ý thức đạo đức sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của một NHTM, hướng người cán bộ đến lợi ích tập thể chứ không vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến hoạt động của ngân hàng, gây thất thoát tài sản cho ngân hàng.
Trên thực tế, nguồn nhân lực có chất lượng cao và ý thức đạo đức trong công việc còn thiếu nhiều và chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của các NHTM. Công tác tuyển dụng và đào tạo còn nhiều bất cập, tệ nạn quan liêu vẫn còn diễn ra ở các NHTM. Do đó, đối với từng NHTM, cần phải chú trọng trong công tác tuyển dụng và đào tạo cán bộ, luôn tạo cho cán bộ một môi trường làm việc tốt nhất, phát huy hết năng lực của cán bộ.
Định kỳ tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và ứng xử với khách hàng cho cán bộ ngân hàng để cán bộ ngân hàng nâng cao trình độ, tiếp cận được với ngân hàng hiện đại và ứng xử tốt với những tình huống