cách Hồ Chí Minh”, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Quan tâm nắm bắt dư luận xã hội, tình hình diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới, của lãnh đạo Tòa án với đội ngũ cán bộ, Thẩm phán trong việc giáo dục, quản lý, thực hiện tốt công tác cán bộ.
Cán bộ cơ quan Tư pháp cũng như cán bộ ngành Tòa án phải luôn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phụng công thủ pháp; chí công vô tư”. Khi thực hiện nhiệm vụ, luôn gắn với phương châm “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Mỗi cán bộ Tòa án phải tự mình phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình, đồng thời không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất, đạo đức, lối sống. Đấu tranh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thực hiện việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong hệ thống Tòa án nhân dân với chủ đề “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân”, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của thời kỳ hội nhập.
Thứ hai, thực hiện tốt công tác thi tuyển và bổ nhiệm Thẩm phán của các cấp Tòa án
Các Toà án nhân dân phải tuân thủ đúng quy định của Nhà nước, làm tốt công tác tuyển dụng, thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh Thẩm phán, phải bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, đảm bảo đúng tiêu chuẩn do pháp luật quy định, tuyển chọn được những cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, khi tái bổ nhiệm Thẩm phán, phải xem xét đánh giá chất chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của Thẩm phán trong
nhiệm kỳ, nếu đủ tiêu chuẩn thì mới đề nghị tái bổ nhiệm, chuyển công tác khác và không đề nghị tái bổ nhiệm những người còn hạn chế về năng lực, trình độ hay mức hoàn thành nhiệm vụ chưa cao.
Thứ ba, xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cho từng giai đoạn, đồng thời thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, chú trọng đào tạo chuyên sâu Trên cơ sở rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ, TANDTC cần có kế hoạch
đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng hàng năm cho đội ngũ Thẩm phán cấp phúc thẩm căn cứ vào nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Nội dung đào tạo cần tập trung về kỹ năng xét xử phúc thẩm, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà phúc thẩm. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng phải phù hợp với yêu cầu công việc, vừa rộng, vừa chuyên sâu, kết hợp lý thuyết và thực hành kỹ năng nghiệp vụ của Tòa án, bán sát nhiệm vụ chính trị của Tòa án.
Các lớp ngắn hạn về kỹ năng đặc thù nghiệp vụ xét xử cũng cần được thực hiện thường xuyên, nhất là cập nhật kịp thời các kiến thức pháp luật mới được bổ sung, hướng dẫn. Thời gian tới cần chú trọng đào tạo chuyên sâu sau đại học, để xây dựng được đội ngũ Thẩm phán phúc thẩm có thể đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp với các cơ sở đào tạo chuyên ngành để đa dạng hóa loại hình đào tạo, phục vụ xét xử chuyên sâu. Tăng cương các hoạt động thực tiễn, các phiên tòa rút kinh nghiệm, để xây dựng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay cũng như chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta.
Thứ tư, căn cứ vào năng lực, trình độ của Thẩm phán để phân công nhiệm vụ phù hợp, nâng cao hiệu quả công tác
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Tồn Tại Và Vướng Mắc Trong Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Đồng Nai Và Nguyên Nhân
- Yêu Cầu Đặt Ra Cho Việc Xét Xử Phúc Thẩm Trong Cải Cách Tư Pháp
- Các Giải Pháp Về Tổ Chức Bộ Máy, Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Tòa Án Nhân Dân
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý công tác cán bộ, phát hiện và bồi dưỡng những Thẩm phán có năng lực, trình độ để sắp xếp, bố trí và phân công nhiệm vụ phù hợp. Mỗi Thẩm phán có năng lực, sở trường và điều kiện khác nhau để hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, khi phân công nhiệm vụ cho Thẩm
phán nói chung và thẩm phán Tòa án phúc thẩm nói riêng phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và nhu cầu công tác của họ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cần kịp thời phát hiện và điều chuyển những Thẩm phán hạn chế về trình độ chuyên môn, thiếu kỹ năng nghiệp vụ do thiếu rèn luyện, học tập hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm sang làm công việc khác phù hợp hơn. Trường hợp cần phải luân chuyển, biệt phái Thẩm phán, nên có chính sách phù hợp đối với họ. Việc phân công, bố trí nhiệm vụ phù hợp là một trong những yếu tố hết sức quan trọng đến hiệu quả công tác, hạn chế vi phạm do lỗi chủ quan, đảm bảo thực hiện tốt hoạt động xét xử.
Thứ năm, nghiên cứu xây dựng chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ phù hợp với từng chức danh Thẩm phán
Hiện nay, các chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án được thực hiện theo Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH ban hành ngày 30/9/2004 và Nghị quyết số 1212/2016/UBTVQH13 ban hành ngày 13/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sửa đổi, bổ sung chế độ phụ cấp đối với một số chức danh mới theo quy định của Luật tô chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Thực tế cho thấy, chế độ chính sách tiền lương cũng như các chính sách đãi ngộ khác đối với các bậc Thẩm phán hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, còn nhiều bất cập, hạn chế. Việc quy định thang bảng lương của Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác chưa phù hợp, chưa xem xét đến tính đặc thù của Thẩm phán. Hơn nữa, khi thi hành công vụ, Thẩm phán cũng phải thường xuyên tiếp xúc với các loại tội phạm, có những rủi ro, nguy hiểm rất lớn, nhưng có chế đảm bảo an toàn cho thẩm phán và các chức danh tư pháp khác chưa rò ràng. Với đặc thù của nghề nghiệp, chế độ đãi ngộ hiện nay vẫn chưa thực sự là động lực khuyến khích được đội ngũ cán bộ tòa án, Thẩm phán đề cao trách nhiệm công tác cũng như phấn đấu rèn luyện nâng cao trình độ nghề nghiệp. Thực tế hiện nay hàng năm có nhiều Thẩm phán đã xin chuyển ngành
vì chưa thực sự đảm bảo được cuộc sống, trong khi chế độ trách nhiệm pháp lý phải chịu là rất lớn. Một khi chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ được nâng nên, sẽ giúp Thẩm phán và công chức Tòa án yên tâm làm việc, tập trung cống hiến, vận dụng toàn bộ trí lực vào nghiên cứu hồ sơ và xét xử, hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công, hạn chế tiêu cực. Những năm gần đây, dưới sự phát triển của kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm và có nhiều chính sách để cải cách tiền lương cũng như chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán Tòa án và toàn bộ đội ngũ cán bộ tư pháp. Trong thời gian tới, vẫn cần có những chế độ đãi ngộ phù hợp hơn với chức danh của cán bộ tư pháp, phân cấp tiền lương phù hợp hơn. Trường hợp Thẩm phán được luân chuyển, biệt phái thì trong thời gian luân chuyển, biệt phái thực hiện công tác xét xử, cần có chính sách phù hợp đối với họ về chế độ nhà công vụ, hỗ trợ kinh phí mỗi tháng, phụ cấp công vụ. Nghiên cứu, đề xuất chế độ chính sách đặc thù đối với Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án nhân dân (theo lộ trình của Ban Chỉ đạo tiền lương Nhà nước). Đây cũng là một trong những biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Thứ sáu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác Tòa án Trong thời đại hiện nay, việc vận dụng công nghệ thông tin vào công
tác Tòa án nói chung, công tác xét xử nói riêng là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, nguồn nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin của Tòa án nhân dân địa phương còn thiếu và yếu, chủ yếu là kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác triển khai ứng dụng công nghệ thông tin tại các Tòa án nhân dân địa phương. Bên cạnh đó, còn không ít cán bộ, công chức ngại ứng dụng công nghệ thông tin vì không muốn thay đổi thói quen làm việc. Hơn nữa, chưa có cơ chế, chính sách thu hút người giỏi về công nghệ thông tin vào làm việc tại Tòa án, trong khi đó công tác Tòa án cần hệ thống công nghệ thông tin, mạng, an ninh, an toàn, bảo mật tuyệt đối. Để đáp ứng yêu cầu, trong thời gian tới
cần tiếp tục tiến độ trình Chính phủ phê duyệt Chiến lược tổng thể về phát triển Công nghệ thông tin của Tòa án và Đề án cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin các loại vụ án, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Tòa án, hướng đến xây dựng Tòa án điện tử ở Việt Nam.
Cuối cùng là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong hệ thống Toà án nhân dân
Hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm mục đích phát hiện và khắc phục kịp thời những trường hợp vi phạm, vi phạm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử. Vì vậy, Tòa án nhân dân các cấp cần căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao, thường xuyên thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ, nếu có vi phạm thì yêu cầu khác phục, đồng thời xử lý trách nhiệm nếu có vi phạm, theo đúng quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND được ban hành kèm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở Chương 1 và những quy định của pháp luật về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được quy định trong BLTTHS năm 2015 cũng như thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của TAND tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2016-2020 ở Chương 2. Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã nêu và phân tích các yêu cầu đặt ra cho việc xét xử phúc thẩm trong cải cách tư pháp, bao gồm: Yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN, yêu cầu về việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, yêu cầu về chiến lược cải cách tư pháp, yêu cầu về phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay; Tác giả cũng đã đưa ra được một số giải pháp về pháp luật, về tổ chức, về con người cũng như một số giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài “Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”, trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả đã làm rò một số nội dung sau:
1. Về lý luận, tác giả đã phân tích, làm rò khái niệm, tính chất, đối tượng của xét xử phúc thẩm, đồng thời nêu những điểm khác nhau cơ bản giữa xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Bên cạnh đó, tác giả đã đi sâu phân tích, đánh giá một số quy định của pháp luật Việt Nam về xét xử vụ án hình sự được quy định trong các văn bản như Bộ luật TTHS năm 1988, Bộ luật TTHS năm 2003, Bộ luật TTHS năm 2015 và một số quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm trước khi ban hành Bộ luật TTHS.
2. Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá thực trạng xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai, tác giả nhận thấy, hoạt động xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 2016-2020 đã đạt được nhiều kết quả, cơ bản đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, hoạt động xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Đồng Nai vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, trong đó có hạn chế của pháp luật hiện hành về quyền kháng cáo, kháng nghị và quyền hạn của HĐXXPT cũng như năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tư pháp Tòa án, nhất là đội ngũ Thẩm phán.
3. Để nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm, khắc phục những tồn tại, hạn chế, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng như yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và hội nhập quốc tế, cần thực hiện một số giải pháp góp phần hoàn thiện BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành, từng bước nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và đội ngũ Thẩm phán nói riêng, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử và ứng dụng công nghệ thông
tin trong xét xử để đảm bảo xét xử đúng người, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Trong quá trình nghiên cứu, với sự giúp đỡ tận tình của thầy hướng dẫn cùng các chuyên gia, các bạn đồng nghiệp, tác giả đã cố gắng để đạt được các kết quả nêu trên trong luận văn. Tuy nhiên, do phạm vi của đề tài và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, những nội dung trình bày trong luận văn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, quý thầy cô và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.