bằng đơn kháng cáo thì họ còn có thể trình bày kháng cáo trực tiếp tại Tòa án cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, nội dung cần có trong đơn kháng cáo đã được quy định tại Điều 332 BLTTHS, nhưng chưa có quy định cụ thể về nội dung cụ thể của biên bản kháng cáo trong trường hợp kháng cáo trực tiếp tại Tòa án. Mặc dù vấn đề này không quá khó đối với nghiệp vụ của Tòa án, nhưng để đảm bảo thống nhất thì vẫn nên có quy định về nội dung này. Do đó, theo tác giả, có thể bổ sung quy định tại Điều 332, với khoản 2 thêm nội dung: “2. Đơn kháng cáo, biên bản về việc kháng cáo có các nội dung chính:….”
Thứ ba, về phạm vi của xét xử phúc thẩm theo quy định tại Điều 345 Bộ luật TTHS:
Nội dung Điều 345 có quy định Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án (quyết định) bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn có thể xem xét các phần khác dù không có kháng cáo, kháng nghị nếu xét thấy cần thiết. Từ quy định trên có thể thấy, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị trước, nếu thấy cần thiết thì mới xem xét đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị. Nhưng BLTTHS hiện hành lại không quy định thế nào là trường hợp “cần thiết”. Đây cũng là một quy định mang tính khái quát, không rò ràng. Điều này có hạn chế là các Thẩm phán có thể dựa nhiều vào ý chí chủ quan, kinh nghiệm của mình để xác định cần thiết hay không, do vậy cần phải được quy định cụ thể vấn đề này. Các Thẩm phán có thể vận dụng quy định cũ như tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS: “trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Tuy nhiên, quy định này đã hết hiệu lực, đồng thời cũng chỉ quy định khi có điểm cần giảm nhẹ TNHS cho bị cáo, nên để áp dụng pháp luật thống nhất, vẫn cần phải quy
định theo hướng ghi rò trường hợp nào là cần thiết đối với các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị để Tòa án cấp phúc thẩm được quyền xét xử nội dung đó. Theo tác giả, có thể bỏ cụm từ “cần thiết” trong Điều 345 BLTTHS, thay vào đó sửa đổi theo hướng “Nếu xét thấy có căn cứ để sửa hoặc hủy bản án, quyết định theo hướng có lợi cho bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị thì có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định đó nếu có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị đang được giải quyết”.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm:
Điều 357 BLTTHS có quy định trường hợp khi HĐXXPT xác định bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên có nội dung không phản ánh đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì HĐXXPT có quyền sửa bản án sơ thẩm, trong đó có quyền sửa bản án theo hướng “Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng” theo điểm d khoản 1 Điều 357 BLTTHS. Hơn nữa, khoản 3 Điều 357 quy định HĐXXPT có thể giảm mức bồi thường thiệt hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Như vậy có thể thấy, Điều luật này quy định cho HĐXXPT có quyền giảm mức bồi thường thiệt hại mà không phụ thuộc vào việc kháng cáo, kháng nghị về bồi thường thiệt hại. Theo tác giả, quy định này phần nào chưa hợp lý với nguyên tắc tự nguyện cam kết và thỏa thuận trong luật dân sự. Khi không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi thường thiệt hại của bản án sơ thẩm thì được coi như giữa bị cáo, bị hại hoặc nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự đã không có mâu thuẫn về phần bồi thường thiệt hại, họ đã thống nhất về mặt ý chí với phán quyết của Tòa án. Trong trường hợp này nếu HĐXXPT tự ý giảm mức bồi thường thiệt hại mà không cần có kháng cáo, kháng nghị liên quan là không cần thiết. Do đó, theo tác giả, để thống nhất với đề xuất bổ sung về phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 345 BLTTHS, thì Điều
357 nên bổ sung thêm về vấn đề HĐXXPT có quyền sửa bản án sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại chỉ khi có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi thường thiệt hại.
3.2.1.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật
Một số quy định của pháp luật còn chưa rò ràng, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tăng cường hướng dẫn, giải thích một số nội dung sau:
Thứ nhất, hướng dẫn áp dụng trường hợp HĐXXPT triệu tập bị cáo không bị kháng cáo hoặc không bị kháng nghị tham gia phiên Tòa phúc thẩm. Theo quy định hiện hành, những vụ án có nhiều bị cáo, nhưng không phải tất cả các bị cáo đều có kháng cáo, kháng nghị. Do đó, khi cần triệu tập những người này tham gia phiên tòa, thì tư cách tham gia tố tụng của họ chưa được quy định rò ràng. Do đó, theo tác giả để giải quyết vướng mắc nêu trên và đảm bảo việc áp dụng thống nhất thì Cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc xác định tư cách những người tham gia tố tụng của bị cáo không bị kháng cáo hoặc không bị kháng nghị.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Đồng Nai
- Một Số Tồn Tại Và Vướng Mắc Trong Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Đồng Nai Và Nguyên Nhân
- Yêu Cầu Đặt Ra Cho Việc Xét Xử Phúc Thẩm Trong Cải Cách Tư Pháp
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 10
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Thứ hai, hướng dẫn áp dụng khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015: Theo quy định thì trong trường hợp nếu VKS kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu, HĐXXPT có thể sửa bản án theo hướng “tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật Hình sự về tội nặng hơn…” hoặc “chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn”. Quy định này còn một số điểm chưa hợp lý:
Một là, Điều luật chỉ quy định trường hợp VKS kháng nghị hoặc bị hại yêu cầu mà không đề cập đến trường hợp người đại diện hợp pháp của bị hại nếu bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần có quyền yêu cầu.
Hai là, nếu HĐXXPT chuyển sang áp dụng tội nặng hơn, khung hình phạt nặng hơn thì thành phần HĐXX như thế nào, HĐXXPT có quyền sửa bản án hay không nếu thấy có căn cứ tăng nặng hình phạt đối với bị cáo đến
20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, bởi lẽ, vấn đề này còn ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo.
Hai vấn đề nêu trên hiện nay vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể, rò ràng. Tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, ban hành hướng dẫn trường hợp nêu trên để áp dụng thống nhất.
Thứ ba, hướng dẫn áp dụng trường hợp người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu tại giai đoạn xét xử phúc thẩm. Mặc dù hiện nay vấn đề này đã được hướng dẫn tại Công văn 254/TANDTC, trong đó có quy định “…Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” [34]. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 359 không đề cập đến trường hợp rút yêu cầu khởi tố theo khoản 8 Điều 157, mà chỉ quy định hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ đối với các trường hợp quy định tại khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 BLTTTHS. Để giải quyết vướng mắc này, Công văn 254/TANDTC là kịp thời. Nhưng theo tác giả, để phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, thì Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao mới có thẩm quyền ban hành Nghị quyết để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật.
Do đó, trong thời gian tới, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm có hướng dẫn thay thế Công văn 254 để áp dụng thống nhất trong trường hợp này.
3.2.2. Các giải pháp về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, việc tổ chức các Tòa chuyên trách trong Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng Tòa án. Đồng thời, ngày 07-4-2016, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 345/2016/QĐ-CA về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong quyết định này nêu rò, bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm: Văn phòng; Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng. Đối với TAND cấp huyện, bộ máy giúp việc là Văn phòng. Cơ bản, bộ máy giúp việc của các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện đã được kiện toàn đầy đủ và đi vào hoạt động hiệu quả.
Tuy nhiên, về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của TAND vẫn còn một số hạn chế. Ngày 05/8/2019 đồng chí Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình chủ trì Hội thảo về Đề án tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của TAND bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng, nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới đã có nhận định: “tổ chức bộ máy của TAND vẫn còn bộc lộ một số hạn chế; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số đơn vị chưa rò ràng, còn chồng chéo, trùng lắp…”.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 31, khoản 3 Điều 37, Điều 39 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Thẩm quyền này đã được giao cho các Tòa án nhân dân cấp cao. Quy định này có ưu điểm là tăng cường tính thống nhất và nâng cao chất lượng công tác giám đốc thẩm, tái thẩm theo định hướng cải cách tư pháp, nhưng cũng có hạn chế vì theo quy định TAND tỉnh trực tiếp thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp huyện. Bên cạnh đó, TAND cấp tỉnh vẫn còn Ủy ban Thẩm phán. Như vậy, việc bỏ thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm của TAND cấp tỉnh lại tạo áp lực lên TANDCC, đồng thời có thể làm chậm thủ tục kháng nghị khi TAND cấp tỉnh chỉ còn quyền kiến nghị kháng nghị nếu TAND cấp tỉnh phát hiện có căn cứ cần phải kháng nghị. Để khắc phục phần nào hạn chế này, hiện nay đã thực hiện giải pháp biệt phái Thẩm phán TAND các cấp lên TANDCC phối hợp nghiên cứu, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm tồn đọng cũng chưa giải quyết dứt điểm được tình trạng này. Do TAND cấp tỉnh hiện nay vẫn còn Ủy ban Thẩm phán, nên việc đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy Toà án nhân dân cấp tỉnh trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 theo hướng: Giao cho Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm, có quyền tái thẩm đối với bản án, quyết định về một số loại vụ việc của Tòa án nhân dân cấp huyện có hiệu lực pháp luật (quy định tại khoản 3 Điều 37, Điều 39 Luật Tổ chức TAND năm 2014) [28].
Trường hợp người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo các Tòa án nhân dân, theo quy định của Luật Tổ chức TAND hiện nay, nếu đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 67 của Luật này và điều kiện quy định tại điểm b khoản 1, điểm b khoản 2, điểm c khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 68 thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp. Với quy định như vậy, quy định này rất khó thực hiện được trên thực tế, vì tiêu chuẩn “đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử” quy định tại khoản 3 Điều 67 Luật Tổ chức TAND, có nghĩa những người được điều động này phải có chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ xét xử mới được bổ nhiệm. Do vậy, để có thể thực hiện quy định này trên thực tế, cần phải sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 68 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Có thể điều chỉnh theo hướng bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp đối với những người được điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo TANDCC, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện mà không cần tiêu chuẩn “đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử” quy định tại
khoản 3 Điều 67 Luật tổ chức TAND. Việc này chỉ thực hiện trong trường hợp cần thiết, cần kiện toàn cơ cấu, tổ chức Tòa án, khi bổ nhiệm có thể thiếu tiêu chuẩn này tại thời điểm bổ nhiệm, nhưng sau khi bổ nhiệm phải tạo điều kiện thuận lợi đưa họ đi đào tạo nghiệp vụ xét xử sớm nhất, để đáp ứng tiêu chuẩn chung theo quy định.
3.2.3. Các giải pháp về kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án
Việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đội ngũ này phải được xây dựng, kiện toàn theo hướng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới cũng như phải tuân thủ quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp. Đặc biệt, Thẩm phán trung cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán trung cấp muốn được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán cao cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán cao cấp. Xây dựng, kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án phải đảm bảo cả về số lượng và chất lượng.
Về số lượng: Tòa án nhân dân đã cơ bản thực hiện đủ số lượng biên chế được giao, phần nào khắc phục được tình trạng thiếu biên chế Thẩm phán so với giai đoạn trước trước khi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán TAND tỉnh Đồng Nai hiện nay vẫn còn thiếu biên chế, trong thời gian tới vẫn cần tiếp tục được bổ sung, kiện toàn.
Về chất lượng Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án: Nhìn chung, đội ngũ thẩm phán, cán bộ tư pháp khác của Tòa án có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ lý luận chính trị đã được nâng cao so với những năm trước, trong đó 100% Thẩm phán ở Đồng Nai được bổ nhiệm lần đầu đều có trình độ cử nhân luật và được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có phẩm chất đạo đức và khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; 100% Thẩm
phán TAND tỉnh Đồng Nai là thẩm phán trung cấp, có 01 Thẩm phán cao cấp. Trong thời gian tới, cần kiện toàn đội ngũ thẩm phán theo hướng nâng cao chất lượng chuyên sâu, tăng số lượng Thẩm phán cấp tỉnh có trình độ Tiến sĩ, thạc sĩ, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử.
3.2.4. Các giải pháp khác
Hệ thống pháp luật hình sự và Tố tụng hình sự cũng như chủ thể tiến hành tố tụng, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của công tác XXPT vụ án hình sự. Theo yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, điều này đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán của Tòa án các cấp. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta hiện nay và tỉnh Đồng Nai nói riêng, đội ngũ các thẩm phán Tòa án các cấp trong đó có Tòa án cấp phúc thẩm trình độ còn chưa đồng đều, số lượng Thẩm phán được biên chế còn thiếu, kỹ năng nghề nghiệp một số chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính vì vậy, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải từng bước và nhanh chóng xây dựng đội ngũ Thẩm phán của Tòa án các cấp nói chung và thẩm phán Tòa án cấp phúc thẩm vụ án hình sự nói riêng có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng xét xử giỏi, có tinh thần trách nhiệm cao. Để nâng cao năng lực của đội ngủ Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm, có thể tập trung vào một số giải pháp sau:
Đầu tiên, cần chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ đối với đội ngũ cán bộ Tòa án nói chung và đội ngũ Thẩm phán Tòa án cấp phúc thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Để thực hiện giải pháp trên, các chi bộ Tòa án cần chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ đảng viên gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong