Tư Tưởng Kay-Són Phôm-Vi-Hán Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào Của Dân, Do Dân Và Vì Dân


mới - NNPQ của dân, do dân, vì dân. Tất cả đều hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ là sự phát triển sáng tạo các giá trị tiến bộ của tư tưởng NNPQ trong điều kiện cách mạng Việt Nam.

Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi hết sức to lớn, vẻ vang trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) lần đầu tiên Đảng CSVN chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã đề ra những biện pháp thiết thực nhằm xây dựng và hoàn thiện về mọi mặt bộ máy nhà nước, xây dựng kỷ cương xã hội và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân; và đặc biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa VII) đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc cụ thể hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII là hội nghị chuyên bàn về nhà nước “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Sau khi đánh giá những thành tựu và khuyết điểm, yếu kém trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước Việt Nam và những yêu cầu trước tình hình mới, văn kiện Hội nghị đã nêu 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước cụ thể là:

Một là, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng CSVN lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân;

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp;

Ba là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam;


Bốn là, tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng NNPQ Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN;

Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Do khoảng thời gian từ Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đến Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII tương đối ngắn nên các quan điểm về NNPQ trong Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII về cơ bản giống như Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII; Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII cũng nhắc lại năm quan điểm và các nhiệm vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, phần nội dung nhiệm vụ được cụ thể hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

Để triển khai nội dung các quan điểm về NNPQ của Đại hội VIII của Đảng CSVN; Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định:

Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật [11, tr.131-132].

Xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân - 8

Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ XHCN trong điều kiện mới. Xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam chính là xây dựng một nhà nước thực sự của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước được tổ chức và vận hành một cách khoa học phù hợp với thực tiễn đất nước, có cơ chế hiệu quả và an toàn ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người.

Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X, Quốc hội đã thông qua Nghị Quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 mà theo đó Điều 2 đã được sửa đổi, bổ sung như sau:


Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực của Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng khẳng định:

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc nhân dân.Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp [12, tr.45].

Tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đại hội Đảng lần thứ XI cũng khẳng định:

Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường [13, tr.246].

Đồng thời quyết định 4 nội dung quan trọng để đẩy mạnh xây dựng NNPQ XHCN như:

+ Nâng cao nhận thức về xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước

+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới

+ Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.

Những quan điểm, định hướng của Đảng CSVN và những quy định này của Hiến pháp năm 1992, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong Hiến pháp năm 2013. Điều 2 của Hiến pháp năm 2013 quy định một cách toàn diện, đầy đủ và sâu


sắc về NNPQ XHCN Việt Nam, đặc biệt đã bổ sung yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước cùng với phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tạo cơ chế đồng bộ về phân công và giám sát quyền lực trong NNPQ XHCN. Cụ thể Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:

1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công dân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

2.3. TƯ TƯỞNG KAY-SÓN PHÔM-VI-HÁN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN

Quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN về NNPQ là bước phát triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực trong tư tưởng pháp quyền của các nhà tư tưởng, các nhà cách mạng ở phương Đông, phương Tây vào việc xây dựng một nhà nước kiểu mới phù hợp với thực tế CHDCND Lào.

Mặc dù, trong di sản lý luận của Kay-són PHÔM-VI-HÁN đã đề cập đến khái niệm và quan điểm về xây dựng NNPQ, nhưng đến hiện nay quan điểm của Người vẫn chưa được chính thức đưa vào Văn kiện của Đảng NDCM Lào. Nếu xét về nội dung khoa học của tư tưởng về NNPQ trong lịch sử tư tưởng nhân loại thì những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN về nhà nước và pháp luật kiểu mới, về xây dựng NNPQ đã thể hiện khá đầy đủ những đặc trưng, nội dung cơ bản của việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân hiện nay. Tất nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách bộ máy nhà nước nói chung và xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân hiện nay nói riêng, Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đều dựa trên quan điểm của chủ nghĩa


Mác-Lênin và tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của CHDCND Lào.

Qua 4 tác phẩm của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN, có thể khái quát nội dung chủ yếu về NNPQ như sau:

Thứ nhất, tư tưởng về nhà nước kiểu mới là nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân với một nền dân chủ triệt để

Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN luôn khẳng định sức mạnh của nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; vì vậy, phải xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Người đã chỉ rõ trong bài viết: “Cải cách và tăng cường hiệu quả của nhà nước dân chủ nhân dân để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chế độ mới”:

Đổi mới hoạt động Nhà nước theo hướng tiếp tục xây dựng và phát huy chế độ dân chủ nhân dân, làm cho Nhà nước của chúng ta thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đảm bảo quyền làm chủ đất nước của nhân dân, phát huy dân chủ trong xã hội, khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước bằng việc đóng góp ý kiến vào chính sách, vào quy chế pháp luật của Nhà nước, nhất là về Hiến pháp [110, tr.442].

Theo Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân là nhà nước mà trong đó tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước của dân là nhà nước do nhân dân làm chủ. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền tự do sống và làm việc theo khả năng và sở thích của mình trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Nhà nước do dân là nhà nước mà nhân dân trực tiếp dựng lên. Cán bộ trong các cơ quan của chính quyền do dân lựa chọn bầu ra. Tài chính của nhà nước do nhân dân đóng góp. Chính sách, pháp luật, cơ cấu tổ chức nhà nước do nhân dân tham gia xây dựng. Các hoạt động của nhà nước đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,


lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhà nước của dân, nhà nước do dân thì điều tất yếu dẫn tới hệ quả nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lời ích và nguyện vọng của nhân dân. Tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN về một nhà nước vì dân là cơ quan nhà nước và cán bộ công chức phải lấy phục vụ nhân dân làm mục đích chính, không có đặc quyền đặc lợi. Người viết:

Thường xuyên thông tin cho nhân dân về các hoạt động của nhà nước. Tổ chức bầu cử các cơ quan đại diện của nhân dân và lấy ý kiến của nhân dân về các quốc sách, chính sách và pháp luật, về tổ chức và phong cách làm việc, thái độ phục vụ nhân dân của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước. Làm như vậy là để thực hiện quyền làm chủ và quyền kiểm tra của nhân dân đối với cơ quan Nhà nước [109, tr.479].

Đây là tư tưởng mới mẻ, nhất quán, nổi bật trong cuộc đời của Chủ tịch Kay- són PHÔM-VI-HÁN.

Từ những tư tưởng đó của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN, đặt ra vấn đề là phải xây dựng những thiết chế mới bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ của họ trong xây dựng nhà nước, trong quản lý nhà nước và xã hội. Phải làm sao để nhân dân có thực quyền, khắc phục được dân chủ hình thức. Hiện nay, việc xây dựng NNPQ dân chủ phải được thực hiện trong thực tế quy chế dân chủ ở cơ sở; quy định chế độ nhân dân kiểm tra, giám sát, góp ý kiến cho các cơ quan, cán bộ công chức; xây dựng chế độ các cơ quan nhà nước báo cáo công việc để dân biết, cần mạnh dạn phân cấp cho chính quyền cơ sở và quy định những loại việc phải đưa dân bàn và dân quyết định.

Thứ hai, tư tưởng về một nhà nước có hiệu lực mạnh mẽ, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp

Nhà nước pháp quyền tất yếu phải có một cơ cấu tổ chức và một cơ chế hoạt động thích hợp để bảo đảm hiệu lực và hiệu quả. Vào những năm đầu của nước CHDCND Lào, mặc dù không trực tiếp nói đến sự phân công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng tư tưởng phân công quyền lực đó được đúc kết và thể hiện rõ ràng trong Hiến pháp năm 1991 do Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI- HÁN trực tiếp chỉ đạo xây dựng. Theo Hiến pháp 1991 thì: Quốc hội là cơ quan lập pháp có quyền quyết định những vấn đề cơ bản của đất nước và giám sát hoạt động


của cơ quan hành pháp và tư pháp (Điều 39). Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc (Điều 56). Trong Chương VIII của Hiến pháp 1991, Tòa án nhân dân và Viện kiềm sát nhân dân được xác định là cơ quan tư pháp. Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nhà nước gồm có Tòa án Nhân dân tốt cao, Tòa án Nhân dân tỉnh - thành, Tòa án Nhân dân huyện và Tòa án Quân sự (Điều 65). Còn Viện kiểm sát Nhân dân có quyền và nhiệm vụ theo dõi kiểm tra thực hiện pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan quần chúng, các cơ quan tổ chức xã hội, các cơ quan hành chính địa phương, các doanh nghiệp, các cán bộ công chức, công dân và thực hiện quyền truy tố. Viện kiểm sát Nhân dân gồm có: Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh - thành và huyện, Viện kiểm sát Quân sự (Điều 72). Theo Hiến pháp 1991 quy định mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ như là một cơ chế phối hợp và kiểm soát thông qua thể chế về chất vấn, quyền tín nhiệm hay không tín nhiệm đối với các thành viên chính phủ về trách nhiệm của Chủ tịch nước, của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan tư pháp tư pháp được tổ chức và hoạt động trong sự độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp. Không một cơ quan nào được can thiệp vào hoạt động xét xử của cơ quan tư pháp. Và những ý tưởng trên đây được thể hiện trong Hiến pháp sửa đổi bổ sung 2003 của nước CHDCND Lào.

Như vậy, tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN về cách tổ chức quyền lực thể hiện qua Hiến pháp 1991 hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đương thời. Không chỉ dừng lại ở cơ cấu tổ chức bộ máy trong sự phân công quyền lực hợp lý, bảo đảm cho nhân dân thực hiện đầy đủ quyền lực của mình, trong tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN về một nhà nước có hiệu lực, hiệu quả còn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người luôn đề ra yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền nhà nước, thông qua cán bộ, công chức mà thể hiện trách nhiệm trước nhân dân. Muốn thế, cán bộ vừa phải biết công việc quản lý nhà nước, vừa phải nêu cao phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Và Người đã hiểu rõ một trong những nguy cơ giảm hiệu lực của chính quyền là nạn tham nhũng, quan liêu. Tại Hội nghị Tổ chức cán bộ Toàn quốc lần thứ VII, Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN nhấn mạnh: “Tăng cường kiểm soát và


kiểm tra ngân sách nhà nước… Trừng phạt hợp lý đối với người vi phạm kỷ luật ngân sách, người lợi dụng chức vụ nhà nước tham nhũng, ăn hối lộ…” [109, tr.474]. Một nhà nước được xem là NNPQ không bao giờ chấp nhận nạn tham nhũng và tệ quan liêu.

Thứ ba, nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc có tính hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với nhà nước, giữa nhà nước với các tổ chức xã hội. Sự đổi mới pháp luật tăng cường pháp chế đang được tiến hành trên cả ba lĩnh vực cơ bản: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật. Trong bài viết “Nhà nước pháp quyền và đặc điểm xây dựng pháp luật trong điều kiện của chế độ dân chủ nhân dân” Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN đã cho rằng:

Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đề cao pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của công dân đã trở thành thói quen của đời sống hàng ngày. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với công dân và công dân cũng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền phải thông qua một quá trình lâu dài, mà phụ thuộc vào trình độ phát triển về kinh tế-xã hội của đất nước, phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, giác ngộ chính trị của nhân dân công dân và cùng nhiều điều kiện khác [110, tr.500].

Như vậy, nội dung quan trọng của NNPQ theo Kay-són PHÔM-VI-HÁN là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước, NNPQ đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm. Một mặt pháp luật đảm bảo cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân, mặt khác pháp luật xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 13/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí