Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác - Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Quan Điểm Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa


máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực và có mối quan hệ mật thiết với xã hội công dân.

2.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa

Theo lý luận của C.Mác và Ph. Ăngghen các quan điểm về nhà nước và pháp luật so với các lĩnh vực khác tuy không nhiều nhưng hết sức khái quát, cô đọng đã trở thành những quan điểm có tính kinh điển trong nghiên cứu về nhà nước và pháp luật cũng như xây dựng nhà nước và pháp luật kiểu mới.

Kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ, khoa học về nhà nước của các nhà tư tưởng tiến bộ trong lịch sử cũng như thời kỳ đương đại của cách mạng tư sản, C.Mác cho rằng, nhân dân phải đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột giành lấy chính quyền, xây dựng nhà nước của mình. Nhà nước vô sản phải bảo đảm chủ quyền của nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Phân tích vấn đề này C.Mác cho rằng, ngay cả cơ quan nhà nước có chủ quyền, thực hiện quyền lực của mình cũng chỉ là đại biểu cho chủ quyền của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân. Khi phân tích về nhà nước phong kiến, phê phán quan điểm của Hêghen, C.Mác chỉ rõ:

… nếu nhà vua có chủ quyền, vì đại biểu cho sự thống nhất của nhân dân, thì bản thân nhà vua chỉ là người đại biểu cho chủ quyền của nhân dân, là tượng trưng của chủ quyền đó. Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân [5, tr.347].

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó nhà nước tổ chức được đời sống chung của nhân dân, bảo đảm được sự phát triển tự do tối đa và phát triển toàn diện con người. “Tự do” đặt ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác quan niệm “là ở chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao vào xã hội, thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc xã hội” [6, tr.46]. Tự do ở mức độ cao hơn hay thấp hơn của các hình thức nhà nước


được xác định bởi mức độ chúng hạn chế tự do của nhà nước. Giới hạn đó được xác

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

định trong pháp luật mà cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước phải tuân theo.

Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Ghôta”, C.Mác đã chỉ rõ từ “dân chủ”, nếu chuyển qua tiếng Đức có nghĩa là nhân dân nắm chính quyền. C.Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước” [6, tr.350].

Xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân - 7

Từ việc đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của pháp luật như là những giá trị cơ bản của NNPQ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã hướng tới một NNPQ đích thực của xã hội mới. Về mặt nhà nước, C. Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để, dân chủ là do nhân dân tự quy định, là bước chuyển từ xã hội “thần dân” sang xã hội “công dân”; từ “nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”. Dân chủ là xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người, để cuối cùng thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

V.I.Lênin đã phát triển lý luận mác-xít lên tầm cao mới. Sau khi Cách mạng tháng Mười thành công, V.I.Lênin đã nêu quan điểm về thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một nền dân chủ rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển toàn diện con người trong xã hội mới. V.I.Lênin nhấn mạnh, không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội sẽ không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây: 1) Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng XHCN, nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; 2) Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình…

Về mặt nhà nước, V.I.Lênin đã khẳng định hàng loạt quan điểm về xây dựng nhà nước kiểu mới. Theo V.I.Lênin, nhà nước cách mạng khi bắt đầu vận hành bộ máy của mình phải thực hiện ngay chế độ dân chủ theo các hướng cơ bản như sau:

- Quyền bầu cử được thực hiện ngay và dần dần được mở rộng, bầu cử theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín là nguyên tắc tiến bộ nhất


của nền dân chủ hiện đại. Qua đó, những người lao động tự lựa chọn được người xứng đáng nhất thay mặt mình giải quyết và quản lý công việc của Nhà nước và xã hội.

- Quyền tham gia quản lý nhà nước của những người lao động. Tất cả mọi công dân, không trừ một người nào đều phải tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thể hiện vai trò làm chủ của mình và đóng góp tối đa công sức cho xã hội.

- Quyền bãi miễn là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chế độ dân chủ, thực hiện đúng vấn đề có tính nguyên tắc này sẽ làm tăng thêm trách nhiệm của đại biểu đối với cử tri và xã hội, tức là thực hiện sự phục tùng thực sự của những người được bầu đối với nhân dân, là nguyên tắc nhằm thực hiện triệt để chế độ dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.

V.I.Lênin cho rằng pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng trong quản lý xã hội mới, là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Pháp luật XHCN là pháp luật kiểu mới, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động - lực lượng chiếm số đông trong dân cư. Pháp luật XHCN thể hiện những nội dung mới, có đặc trưng riêng biệt so với các kiểu pháp luật của các xã hội trước đó, nhưng đồng thời cũng có sự kế thừa các giá trị của văn minh pháp luật của nhân loại. Pháp luật XHCN mang tính nhân đạo, phản ánh những giá trị của sự tiến bộ xã hội và mang tính nhân dân rộng rãi. Pháp luật XHCN khẳng định địa vị pháp lý, bảo vệ và bảo đảm cho sự an toàn pháp lý của nhân dân lao động. Tính dân chủ là tính chất cơ bản của kiểu pháp luật XHCN. Pháp luật XHCN điều chỉnh các quan hệ, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của đại đa số nhân dân lao động.

- Pháp luật XHCN thể chế hóa đường lối chính trị của Đảng Cộng sản - lực lượng nắm quyền lãnh đạo trong hệ thống chính trị XHCN; đường lối chính trị của Đảng Cộng sản được thể chế hóa sẽ trở thành quy tắc xử sự chung của các thành viên trong xã hội và được nhà nước XHCN tổ chức thực hiện.

- Pháp luật là công cụ thực hiện quyền lực của nhà nước XHCN. Nhà nước XHCN cần đến pháp luật không phải chỉ với ý nghĩa là công cụ để trấn áp, cưỡng chế mà quan trọng hơn là để tổ chức quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội mới.

- Pháp luật XHCN thể chế hóa và đảm bảo địa vị làm chủ của người lao

động trong xã hội. Nhờ có hoạt động lập pháp của các cơ quan nhà nước, ý chí giai


cấp được nâng lên thành luật và trở thành ý chí nhà nước - ý chí bắt buộc đối với mọi người.

Học thuyết của V.I.Lênin về pháp chế XHCN hàm chứa những tư tưởng, quan điểm rất gần gũi với học thuyết NNPQ. Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị trong xã hội XHCN, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công chức, viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách triệt để, nghiêm chỉnh và chính xác. Pháp chế có những yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật, mọi quy định của pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp và các đạo luật nhằm bảo đảm cho một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm hiệu quả thực tế của quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc về mặt nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật, loại trừ hiện tượng cát cứ, cục bộ, vô chính phủ, đặc quyền và đặc lợi; đảm bảo trật tự, kỷ cương trong bộ máy nhà nước từ trên xuống dưới và sự chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của mọi công dân, không có ngoại lệ.

Thứ ba, xã hội phải đạt đến một trình độ nhất định về văn hóa pháp lý và ý thức pháp luật bảo đảm khả năng thực tế cho sự xác lập nguyên tắc pháp chế và đưa vào áp dụng trong đời sống xã hội.

Thứ tư, xử lý kịp thời và nghiêm minh các vi phạm pháp luật.

Như vậy, trong tư tưởng pháp chế của V.I.Lênin đã có nhiều yếu tố thể hiện trong những đặc trưng của NNPQ. Ngoài những nội dung mà pháp chế đã khẳng định và phù hợp với những đòi hỏi của NNPQ, còn phải có những yếu tố, những điều kiện khác. Bởi vì, pháp chế XHCN lâu nay được xem như là một nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN. Còn NNPQ, với tư cách là một phương thức thực hiện quyền lực nhà nước đặt toàn bộ đời sống chính trị, đời sống nhà nước trong một môi trường pháp lý thực sự. Như vậy, những tư tưởng về pháp chế XHCN đã đặt cơ sở nền tảng cho việc xây dựng NNPQ sau này ở các nước XHCN, trong đó có cả Việt Nam và CHDCND Lào.


2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là người sáng lập mà còn là người trực tiếp chỉ đạo và thực hành những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để xây dựng chính quyền nhân dân, nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam. Ở Hồ Chí Minh đã sớm hình thành một hệ thống quan điểm về dân chủ, pháp quyền, về quyền con người, về hiến pháp, pháp luật, về các quyền tự do dân chủ của công dân, về đạo đức cách mạng và trách nhiệm của nhà nước…

Qua nghiên cứu, tìm hiểu các tư tưởng của các vị tiền bối và trải nghiệm thực tế ở nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh nhận ra một chân lý rằng đối với dân tộc Việt Nam trước hết cần lật đổ nhà nước thực dân - phong kiến, xây dựng nhà nước dân tộc độc lập, dân chủ cộng hòa. Tư tưởng nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển thể hiện qua một loạt các tác phẩm của Người như: “Yêu sách của nhân dân An Nam” (1919), Lời phát biểu tại Đại hội Tua (1920), “Đông Dương và Triều Tiên” (1921), “Bản án chế độ Thực dân pháp” (1925)… Theo Hồ Chí Minh, nhà nước kiểu mới phải khác về bản chất so với kiểu nhà nước cũ. Nhà nước kiểu mới phải là nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhà nước của đa số người dân lao động. Nhà nước ấy được xây dựng trên cơ sở một Hiến pháp, một hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức. Bản thân nhà nước, các bộ phận cấu thành nhà nước, công chức và cán bộ của nhà nước cũng được hình thành và hành động theo pháp luật và đạo đức.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ CBCC nhà nước; trong đó, quan niệm về NNPQ là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động” [42, tr.87].

Hồ Chí Minh cho rằng, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc


của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở Việt Nam. Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ của dân, do dân, vì dân được ghi trang trọng trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là tư tưởng về “tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”; tư tưởng về “nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia"; tư tưởng về "Chính phủ là công bộc của dân”. Nhà nước của nhân dân thì “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [47, tr.232]. Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Ngay sau ngày giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng Hiến pháp, biểu hiện đầu tiên của một NNPQ. Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam mới, phù hợp với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Việt Nam, là một mốc son quan trọng đánh dấu quá trình bắt đầu xây dựng một NNPQ của dân, do dân và vì dân. Theo Hồ Chí Minh: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [45, tr.515]. Còn chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân bầu ra, vì vậy, “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: Người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân” [43, tr.48]. Đây là một trong những vấn đề hết sức căn bản trong xây dựng nhà nước kiểu mới, NNPQ của dân, do nhân dân làm chủ, mà Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Người viết: “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ” [40, tr.238]. Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước, Người gọi đó là “công bộc” của dân.

Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thỏa mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng


lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất nước.

Bên cạnh việc khẳng định vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng vấn đề quan trọng hơn cả là “luật pháp cũng phải được thi hành nghiêm túc, không trừ một ai” [44, tr.178]. Người đòi hỏi pháp luật của Việt Nam phải “thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” [46, tr.127]. Với cương vị đứng đầu nhà nước, Chính phủ, Hồ Chí Minh nghiêm khắc đòi hỏi mọi tổ chức đảng, chính quyền, quân đội, đoàn thể phải tuân thủ Hiến pháp, hoạt động theo pháp luật, không một ai đứng trên hay đứng ngoài pháp luật, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Chính Người là một tấm gương sáng về tinh thần sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước dân chủ và pháp quyền tất yếu phải có một cơ cấu tổ chức và một cơ chế hoạt động thích ứng phù hợp, nhất quán với bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Hiến pháp 1946, 1959, dưới sự chỉ đạo trực tiếp soạn thảo của Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa hướng vào các tiêu chuẩn: Có một chính sách bầu cử phổ thông đầu phiếu trên cơ sở tự do ứng cử và bầu cử; một quốc hội lập hiến và lập pháp rộng rãi đại diện cho tiếng nói của quốc dân; một bộ máy nhà nước được phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, nhất là ở cấp trung ương; một nền hành chính mạnh tập trung vô tư và khách quan hết lòng phục vụ nhân dân; một nền tư pháp với nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán, thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội; một cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả do nhân dân thực hiện.

Nhà nước pháp quyền theo Hồ Chí Minh là nhà nước thật sự dân chủ. Trong quá trình hoạt động cách mạng ở nhiều nước, cùng với việc tiếp thu chủ nghĩa Mác

- Lênin, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu một cách khá rõ mặt tích cực và hạn chế của nền dân chủ tư sản. Vận dụng vào Việt Nam, Người chủ trương xây dựng một nền dân chủ đích thực - dân chủ XHCN, một nền dân chủ cao hơn về chất so với dân


chủ tư sản. Khái niệm “nhân dân làm chủ quyền lực nhà nước”, “quyền lực thuộc về nhân dân” không phải là khái niệm chung chung mà trở thành luận điểm cơ bản xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển nhà nước, thành nguyên tắc cơ bản hàng đầu trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước XHCN Việt Nam. Quyền lực của nhân dân thể hiện trước hết ở việc dân cử ra chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng nhà nước và các tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng do mình lập ra, quản lý, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy và nhân viên nhà nước. Với Hồ Chí Minh, dân chủ tức là dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là tài sản quý giá nhất của nhân dân, là chìa khóa của tiến bộ và phát triển. Dân chủ chỉ có được khi gắn liền với pháp luật, kỷ cương để bảo đảm cho mọi hoạt động diễn ra một cách có tổ chức, cùng hướng tới mục tiêu vì lợi ích chung của đất nước và lợi ích riêng của mỗi người. Người yêu cầu:

Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà [39, tr.374].

Xuất phát từ mục tiêu xây dựng một chính quyền sáng suốt, mạnh mẽ, một nhà nước trong sạch, có hiệu lực, một nền hành chính vững mạnh... Hồ Chí Minh đã chú trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có đạo đức, gương mẫu chấp hành pháp luật. Đó là những người am hiểu pháp luật, nắm vững ngành nghề chuyên môn và hết lòng phục vụ nhân dân. Ngay trong kháng chiến chống Pháp, Người đã từng căn dặn, người công chức phải đem hết sức lực và tâm trí theo đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc. Trong vấn đề này một lần nữa, có thể thấy bộc lộ rõ rệt tư tưởng xây dựng một bộ máy nhà nước kiểu mới, một NNPQ có những viên chức được tiêu chuẩn hóa, có đức có tài.

Trong sự nghiệp lãnh đạo Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân chủ và pháp luật, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, giữa tinh hoa của văn minh nhân loại với truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam về xây dựng một nhà nước kiểu

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 13/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí