NNPQ gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau tạo nên bản chất của NNPQ trong lịch sử nhân loại.
Thứ tư, tư tưởng về một nền pháp luật dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên thực tế
Qua các tác phẩm của Chủ tịch Cay xon PHÔM VI HÁN và những lời dạy thực tiễn của Người trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, có thể thấy rõ một quan điểm hoàn chỉnh trong tư tưởng Cay xon PHÔM VI HÁN về pháp luật, đó là các quan niệm về pháp luật, vai trò, tác dụng của pháp luật, cách thức ban hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Người viết:
Nhà nước phát huy dân chủ trong việc xây dựng pháp luật. Muốn cho pháp luật sát với thực tiễn, phản ánh ý chí, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng và phù hợp với năng lực thực hiện của nhân dân, chúng ta phải tranh thủ lấy ý kiến của quần chúng đối với đạo luật đó. Có nghĩa là, trước thông qua luật, ban hành một đạo luật nào đó, thì trước hết phải thông qua việc lấy ý kiến của nhân dân các tầng lớp, mà không phải làm riêng trong “phạm vi hẹp” của chuyên viên hoặc Ủy ban pháp luật của Quốc hội [110, tr.505].
Từ đó, Cay xon PHÔM VI HÁN cho rằng, pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, nhưng dân chủ phải trong khuôn khổ của pháp luật chứ không phải là thứ dân chủ vô chính phủ. Trong tư tưởng Cay xon PHÔM VI HÁN một nhà nước có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước theo pháp luật và làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được tôn trọng và phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Pháp luật càng quy định cụ thể và chặt chẽ chừng nào thì quyền của công dân được bảo đảm đến chừng ấy.
Không chỉ dừng lại ở việc ban hành pháp luật, Chủ tịch Cay xon PHÔM VI HÁN còn chăm lo đến việc tuyên truyền pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế cho pháp luật được thi hành, đồng thời tạo ra cơ chế kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Người coi giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân là một việc làm kiên trì, lâu dài. Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN cũng thường nhắc nhở cán bộ phải lo làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình. Công dân hiểu
được pháp luật, hiểu được tinh thần và nội dung của pháp luật để tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, để rồi tự bảo vệ được quyền của mình, đó là một yêu cầu quan trọng của NNPQ, một nhà nước của dân, do dân và vì dân mà Chủ tịch Cay xon PHÔM VI HÁN suốt đời theo đuổi.
Thứ năm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Chủ tịch Cay xon PHÔM VI HÁN còn là một nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc CHDCND Lào
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Những Đặc Điểm Cơ Bản Của Nhà Nước Pháp Quyền
- Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác - Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh Và Quan Điểm Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa
- Tư Tưởng Kay-Són Phôm-Vi-Hán Về Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào Của Dân, Do Dân Và Vì Dân
- Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Nhà Nước Pháp Quyền Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Chức Năng Và Nhiệm Vụ Của Nhà Nước Pháp Quyền Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào Của Dân, Do Dân Và Vì Dân
- Chú Trọng Tổ Chức Nghiên Cứu Cơ Bản, Toàn Diện Và Có Hệ Thống Về Nhà Nước Pháp Quyền, Xây Dựng Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Nhà Nước Pháp
Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.
Chủ tịch Cay xon PHÔM VI HÁN hiểu rất sâu sắc tư tưởng của Lênin về vai trò của nhân tố dân tộc và đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới…
Trung thành với mục tiêu, lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Cay xon PHÔM VI HÁN về nước CHDCND Lào, trước hết là tư tưởng về một nhà nước mang tính dân tộc sâu sắc - nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc. Điều này thể hiện rõ qua Hiến pháp 1991 do Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo. Điều 1, Hiến pháp 1991 ghi rõ: “…Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước thống nhất của các bộ tộc Lào không thể tách nhau được”. Điều 8 ghi rõ: “Nhà nước thực hiện chính sách đoàn kết và công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc. Các dân tộc đều có quyền bảo vệ, giữ gìn, phát huy truyền thống, văn hóa tốt đẹp của mình và của đất nước. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ và phân biệt đối xử giữa các dân tộc”. Sự sáng tạo của tư tưởng Cay xon PHÔM VI HÁN về bản chất nhà nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phạm trù dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân tộc và thời đại, dân chủ nhân dân và chuyên chính vô sản.
Thứ sáu, Kay-són PHÔM-VI-HÁN về sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào đối với Nhà nước
Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng NDCM Lào, Người rất quan tâm đến vấn đề Đảng cầm quyền hay Đảng nắm chính quyền. Tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN về nhà nước có một điều rất quan trọng đó là vai trò lãnh đạo của Đảng NDCM Lào đối với Nhà nước ngay từ khi Nhà nước được thành lập. Đảng lãnh đạo nhà nước là một nguyên tắc bất di bất dịch trong toàn bộ quá trình xây dựng, củng cố và phát triển của nước CHDCND
Lào. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước. Đảng NDCM Lào không chỉ lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Tư tưởng đó của Kay-són PHÔM-VI-HÁN đã được thể hiện rõ trong bài viết: “Sự đổi mới trong hệ thống chính trị”, trong đó “Đảng nhân dân Cách mạng Lào là cơ quan tham mưu chính trị và là đội tiên phong có tổ chức của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động các bộ tộc Lào yêu nước, là hạt nhân lãnh đạo thống nhất của toàn hệ thống chính trị, của mọi hoạt động của Nhà nước và của xã hội” [109, tr.466].
Như vậy, Đảng NDCM Lào lãnh đạo nhà nước thông qua những chủ trương, đường lối, thông qua tổ chức của mình trong bộ máy nhà nước, thể chế hóa đường lối thành pháp luật; kiểm tra, giám sát hoạt động của các đảng viên trong bộ máy nhà nước; Đảng không bao biện và làm thay nhà nước.
2.4. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
2.4.1. Tiền đề và những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
Chủ trương xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân ở CHDCND Lào phản ánh tính tất yếu khách quan và phù hợp với thực tiễn trong quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng NNPQ xuất phát từ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng NDCM Lào khẳng định, để đạt được mục tiêu đó thì cần phải xây dựng nền KTTT định hướng XHCN và một NNPQ dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Tính tất yếu khách quan đó cũng còn xuất phát từ tình hình, đặc điểm của thời đại với xu hướng toàn cầu hóa. Nhu cầu phát triển KTTT, hội nhập và hợp tác quốc tế đòi hỏi phải đẩy mạnh đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho nhà nước ngày càng vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, có đủ năng lực và sức mạnh giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ động hội nhập sâu vào đời sống quốc tế.
Trên cơ sở nhận thức rõ tính tất yếu khách quan đó, quá trình đổi mới tư duy pháp lý, hình thành quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng NNPQ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của Đảng NDCM Lào gắn liền với quá trình hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước Lào từ những tiền đề sau:
- Về kinh tế, đó là xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. Trong hơn 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước Lào, Đảng NDCM Lào đã khẳng định chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Sự ra đời và vận hành nền KTTT định hướng XHCN đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Điều đó đòi hỏi phải đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là hoàn thiện thể chế KTTT; đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới phương thức quản lý kinh tế - xã hội, phải quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Về mặt lý luận, NNPQ chỉ có thể ra đời và hoàn thiện khi các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Cùng với việc đề ra chủ trương về xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, Đảng NDCM Lào cũng đề ra những chủ trương đúng đắn về chính trị, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở cho việc xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân.
- Về chính trị, tư tưởng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng NDCM Lào về nhà nước và pháp luật với chế độ dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Chế độ dân chủ nhân dân là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ rộng rãi trong xã hội, có tính thống nhất và ổn định cao. Đảng NDCM Lào gắn bó với đất nước, với nhân dân và các bộ tộc Lào trong quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng xã hội mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, hệ thống các tổ chức chính trị, xã hội của nhân dân được tổ chức và hoạt động theo đường lối, chính sách, pháp luật thống nhất, tạo sự ổn định về mọi mặt, thống nhất giữa trung ương và địa phương, nhân dân các bộ tộc Lào đoàn kết, chung lòng xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
- Về cơ sở xã hội, đó là khối đoàn kết của nhân dân các bộ tộc Lào. Lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào đã cho thấy sức mạnh to lớn của khối đoàn kết nhân dân các bộ tộc Lào. Trong quá trình đổi mới, sức mạnh đó lại càng được thể hiện một cách mạnh
mẽ, tạo cơ sở xã hội mạnh mẽ và vững chắc cho việc xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào. Nền KTTT định hướng XHCN có những ưu thế và hạn chế của nó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, chủ trương giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội được thực hiện. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các giai tầng, lực lượng xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển, xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
Trong quá trình hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, trên mọi mặt của đời sống xã hội Lào đã có những biến đổi rất cơ bản, toàn diện, những kinh nghiệm bước đầu về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân là cơ sở thực tiễn có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng NNPQ trong thời gian tới. Trong đổi mới tư duy về đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới nhận thức về nhà nước và pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đảng NDCM Lào đã khẳng định đúng đắn chủ trương phải xây dựng NNPQ và đã hình thành, phát triển một hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng NNPQ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đảng đã có nhiều quyết sách có ý nghĩa quan trọng đối với việc đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động, nâng cao hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Hệ thống chính trị đã có sự đổi mới quan trọng, dân chủ ngày càng đi vào thực chất hơn, thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cử, ở chất lượng hoạt động của Quốc hội, ở việc nhân dân ngày càng tham gia tích cực vào việc thảo luận góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng NDCM Lào với Nhà nước đã có bước đổi mới, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng thời phát huy vai trò chủ động, tích cực của Nhà nước. Mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức, đoàn thể xã hội được tăng cường và được thể chế hóa một bước, nhiều đoàn thể xã hội đã tích cực tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Việc xây dựng NNPQ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đòi hỏi phải tính đến những yếu tố (điều kiện) có tính đặc thù của xã hội Lào. Có thể khái quát về các yếu tố đó như sau:
Thứ nhất, về trình độ phát triển kinh tế, Lào là một trong những nước kém phát triển về kinh tế, nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ
hẹp, tư liệu sản xuất phân tán; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp còn chiếm tỷ lệ lớn; các hoạt động công nghiệp, ngoại thương đã bước đầu có sự phát triển, nhất là trong những năm đổi mới. Tuy nhiên, nền kinh tế của Lào về cơ bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trình độ phân công lao động xã hội chưa cao, nền sản xuất hàng hóa chưa phát triển.
Thứ hai, về dân tộc, dân số và lao động, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nước có đa dạng về tộc người. Trong dân số 6,644,009 người và cả nước có 49 dân tộc (Thống kê quốc gia năm 2013) có tiếng nói, phong tục tập quán, trình độ văn hóa, kinh tế, môi trường sinh hoạt…khác nhau, chủ yếu là dân cư hợp thành cộng đồng quốc gia dân tộc Lào. Dân tộc nào sinh sống trên vùng đồng bằng sẽ có điều kiện tốt hơn dân tộc sinh sống trên vùng núi cao về kinh tế, giáo dục, y tế, giao thông…
Ở nước CHDCND Lào đất rộng người thưa, mật độ dân số của Lào thấp, khoảng 24 người/km2, người lao động trong độ tuổi chiếm 48%, trong đó khoảng 80% là lao động nông nghiệp, trình độ dân trí còn thấp. Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật còn ít và phân bố không đều. Điều này không chỉ làm giảm chất lượng nguồn nhân lực mà còn làm chậm khả năng tiếp cận và tiếp thu các công nghệ tiên tiến trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung và là làm cho vi phạm pháp luật ngày càng tăng và trầm trọng hơn trong công cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, về văn hóa, truyền thống, Lào là một nước có nhiều bộ tộc. Từ xa xưa, nhân dân các bộ tộc Lào đã có tinh thần tập thể cao, sống đoàn kết, chan hòa trong cộng đồng. Người Lào có cách ứng xử chừng mực, đôn hậu, yêu hòa bình, hữu nghị. Hiện nay, mặc dù cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các làng, bản được sắp xếp, tổ chức lại theo kế hoạch của nhà nước, những điều kiện về cơ sở hạ tầng, giao thông, điều kiện sinh hoạt đã có nhiều thay đổi, thuận lợi hơn, nhưng các quan hệ và cách ứng xử đó về cơ bản vẫn được tiếp tục phát triển.
Trong xã hội Lào, đạo Phật đã trở thành quốc đạo từ thế kỷ XIV và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Lào; những quan điểm, giáo lý của Phật giáo đã thấm sâu vào đời sống của đông đảo nhân dân các bộ tộc Lào. Ngày nay, CHDCND Lào bước vào thời kỳ xây dựng đất nước phát triển theo định hướng XHCN, các giá
trị cơ bản của đạo Phật vẫn được duy trì và bảo vệ, Phật giáo vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội Lào, nhân dân các bộ tộc Lào sống với nhau theo tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng đạo lý, pháp luật, bảo vệ chân lý, công lý.
Thứ tư, về đặc điểm giai cấp, xuất phát từ đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của Lào, giai cấp nông dân chiếm số đông, giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức còn chiếm tỷ lệ chưa cao. Trong thời kỳ đổi mới, trước yêu cầu của sự phát triển xã hội, đội ngũ trí thức và giai cấp công nhân được tăng cường về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, về cơ bản cấu trúc giai tầng xã hội ở CHDCND Lào vẫn chưa có sự biến đổi lớn.
- Về đặc điểm pháp luật, trước năm 1975, hệ thống pháp luật của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào chưa phát triển. Sau năm 1975, Đảng NDCM Lào và Nhà nước Lào đã từng bước hướng tới sự quản lý nhà nước bằng pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật quan trọng đã được ban hành. Đến năm 1991, Nhà nước Lào đã ban hành Hiến pháp, tạo cơ sở cho việc hình thành một hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ. Cho đến nay, Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã ban hành hơn 100 đạo luật, hàng trăm pháp lệnh, nghị định và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, hệ thống pháp luật ngày càng phát triển, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục được tăng cường, ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân được nâng lên, sự quản lý nhà nước bằng pháp luật ngày càng được chú trọng và đạt được những kết quả quan trọng.
2.4.2. Bản chất của Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Bản chất nhà nước là một trong những vấn đề trọng yếu nhất nhưng đồng thời cũng là một trong những vấn đề khó nhất và phức tạp nhất, được nhiều người, nhiều giới quan tâm sâu sắc. Xuất phát từ tầm quan trọng, tính phức tạp và khó khăn đó mà trong mọi thời đại, vấn đề bản chất nhà nước luôn luôn là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có luật học và nó đã “trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và tranh luận chính trị” [63, tr.31]. Trong xây dựng NNPQ, vấn đề bản chất nhà nước vẫn cần được xác định để tạo cơ
sở cho việc thống nhất nhận thức, xác định mục tiêu, xây dựng chính sách, pháp luật và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể.
Theo nguyên lý chung, bản chất nhà nước bao giờ cũng thể hiện ở tính chính trị (tính giai cấp) và tính xã hội. Đó là hai mặt của một vấn đề thống nhất, không thể chỉ nhấn mạnh thuộc tính giai cấp mà coi nhẹ thuộc tính xã hội của nhà nước và ngược lại. Đối với NNPQ, bản chất đó vẫn được thể hiện rõ nét, đồng thời nó còn được bổ sung một tính chất quan trọng đó là tính pháp quyền. Tính pháp quyền được thể hiện ở những khía cạnh chính là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật; quản lý xã hội bằng pháp luật; dân chủ, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật.
Bản chất của NNPQ CHDCND Lào cũng thể hiện những tính chất chung đó, đồng thời còn phản ánh những đặc điểm riêng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của CHDCND Lào. Có thể khái quát về bản chất của NNPQ CHDCND Lào như sau: Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là một nhà nước dân chủ nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; Quyền làm chủ đất nước của nhân dân các bộ tộc được thực hiện và bảo đảm thông qua hoạt động của hệ thống chính trị với Đảng nhân dân cách mạng Lào là hạt nhân lãnh đạo.
Đây là quan điểm quan trọng khẳng định bản chất giai cấp của Nhà nước Lào, đồng thời là định hướng quan trọng cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tính giai cấp với tính xã hội của Nhà nước. Theo đó, toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của Nhà nước trong mọi lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng và thực hiện pháp luật đến tổ chức cán bộ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, phải quán triệt và thể hiện sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN và quan điểm của Đảng NDCM Lào về nhà nước và pháp luật; phải xuất phát từ tính thống nhất về lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc; phải được thực hiện bằng pháp luật và dân chủ.