Các Nhân Tố Chủ Yếu Tác Động Đến Chính Sách Việc Làm Của Sinh Viên Sau Khi Tốt Nghiệp

Với tính cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, người lao động là những người có khả năng lao động, nghĩa là phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đầu óc” và “đôi bàn tay”. Điều đó tạo nên sức mạnh tổng hợp cho con người. Đó là sức mạnh thể chất và trí tuệ - những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người: “Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và hai bàn tay”. Ngoài ra, người lao động cũng cần phải có kinh nghiệm, những kĩ năng, kĩ xảo trong lao động. C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”. C.Mác khẳng định hoạt động sản xuất chính là một dạng hoạt động chỉ có ở con người, nó khác hẳn về chất so với hoạt động của con vật: “Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu mình rồi. Cuối quá trình lao động, người lao động thu được kết quả mà họ đã hình dung ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi”.

Khi tham gia vào quá trình sản xuất, trước hết con người đem nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất sức mạnh cơ bắp của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến hành sản xuất bằng các khí quan vật chất thuần túy của cơ thể thì con người sẽ không bao giờ tiến xa hơn động vật. Vì con người là một sinh vật xã hội nên ngoài sức mạnh cơ bắp, khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người còn có cả trí tuệ và toàn bộ hoạt động tâm sinh lý và ý thức của họ. Cái phần vật chất của con người trong lực lượng sản xuất được điều khiển bằng trí tuệ nên nó trở nên khéo léo, linh hoạt, uyển chuyển, năng động khiến con người trở thành yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất.

Theo C.Mác, con người là một “động vật biết chế tạo công cụ”. Do đó, ngoài việc sử dụng những công cụ lao động có sẵn, con người đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, con người đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Không chỉ tạo ra các công cụ lao động, con người còn luôn biết cải tạo đối tượng lao động. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên. Khi nền sản xuất ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng tăng lên, công cụ lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động chiếm tỉ lệ ngày càng cao và đang có xu thế hơn hẳn những đối tượng sẵn có trong tự nhiên. Điều đó chứng tỏ con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”. Kế thừa tư tưởng của C.Mác về vai trò quyết định của người lao động trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, V.I. Lênin còn khẳng định sự vượt trội của con người so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất: “Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kĩ năng của con người như công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi”.

Khẳng định trên của các nhà triết học mácxít là đúng đắn vì suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối tượng sẵn có trong tự nhiên) là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thường có những giai cấp nhất định đóng vai trò là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, là bộ phận chính cấu thành lực lượng sản xuất.

Như vậy, quan điểm của các nhà triết học Mác - Lênin về nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất đã cho thấy vai trò quyết định của con người đối với quá trình sản xuất cũng như quá trình lịch sử - xã hội. Quan điểm này không chỉ bác bỏ những quan điểm duy tâm về con người mà còn là cơ sở khoa học để mỗi chúng ta

có những nhận thức đúng đắn về vai trò to lớn của con người, nhất là người lao động đối với sự phát triển của lịch sử. Quan điểm đó có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.

1.3.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên, xây dựng chiến lược, giáo dục, bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực lượng xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người. Chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Thiếu việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không thể giúp thanh niên bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Đối với thanh niên nông thôn, việc làm liên quan đến yếu tố đất đai, tư liệu lao động, công cụ lao động và kỹ năng nghề và vốn sản xuất. Các yếu tố trên kết hợp thành một chỉnh thể tác động mạnh đến đời sống của thanh niên nông thôn. Giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn, vì vậy là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động này. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương khóa X "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã chỉ rõ nhiệm vụ: "Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên".

Những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động nông thôn đã đạt được kết quả bước đầu rất quan trọng. Cơ chế, chính sách về lao động, việc làm được chú trọng, phù hợp với cơ chế thị trường và từng bước hội nhập với thị trường lao động quốc tế. Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về lao động, việc làm được bổ sung ngày càng hoàn thiện. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua nhiều luật quan trọng, trong đó có Bộ luật Lao động năm 2012 (sửa đổi), Luật Giáo dục đại học năm 2012, Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 78 trang tài liệu này.

nghiệp năm 2014; Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011

- 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề giai đoạn 2012 - 2015, trong đó vấn đề việc làm nói chung và việc làm của sinh viên đã tốt nghiệp luôn được chú trọng với quan điểm: bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo thông qua quy định hệ thống các tiêu chuẩn về điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo để nâng cao khả năng có việc làm của sinh viên; thực hiện cơ chế đào tạo theo nhu cầu xã hội, gắn với thị trường lao động.

Việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp đại học - Nghiên cứu điển hình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 3

Ngày 9/7/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2015/NĐ-CPquy định các chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm, trong đó đối tượng thụ hưởng là người lao động Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên (bao gồm sinh viên đã tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, đại học) thông qua các hình thức dưới đây:

- Hỗ trợ thanh niên lập nghiệp (định hướng về nghề nghiệp; cung cấp thông tin về việc làm và nghề nghiệp; đào tạo bồi dưỡng kỹ năng về tìm việc; tham gia chương trình thực tập làm việc tại doanh nghiệp, tổ chức; khởi sự doanh nghiệp (cung cấp kiến thức về pháp luật, quản trị doanh nghiệp và các vấn đề có liên quan đến khởi sự doanh nghiệp; cho vay ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật).

- Cho vay vốn ưu đãi đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành chính sách tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động thông qua hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước. Hằng năm, các chương trình mục tiêu này đã giải quyết việc làm cho 1,1 đến 1,2 triệu lao động, trong số đó đa số là thanh niên nông thôn.

1.4 Các nhân tố chủ yếu tác động đến chính sách việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp

1.4.1 Quy mô và cơ cấu nền kinh tế

Quy mô nền kinh tế là chỉ tiêu phản ánh độ lớn của một nền kinh tế; quy mô nền kinh tế được đo bằng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc Tổng thu nhập quốc gia

(GNI). Quy mô nền kinh tế của một quốc gia lớn hay nhỏ phụ thuộc vào độ lớn các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất của quốc gia đó, bao gồm số lượng vốn; số lượng và chất lượng lao động; số lượng và chất lượng tài nguyên đất đai, các tài nguyên khác; công nghệ sử dụng cho quá trình sản xuất và trình độ quản trị quốc gia và quản trị doanh nghiệp. Thông thường, các yếu tố vốn, tài nguyên chỉ có thể biến thành hàng hóa, dịch vụ khi qua quá trình lao động sáng tạo; nói cách khác là sự kết hợp một cách hợp lý giữa các yếu tố đó với số lượng lao động và chất lượng lao động. Với một lượng nguồn vốn, tài nguyên nhất định, khi có nguồn lao động và công nghệ tốt, thì năng suất yếu tố tổng hợp cao và do đó, giá trị gia tăng sẽ lớn và làm cho nền kinh tế tăng trưởng cao. Điều đó, chỉ ra rằng, quy mô của nền kinh tế lớn hay bé không chỉ phụ thuộc vào số lượng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà còn phụ thuộc vào chất lượng lao động. Nhưng nhìn chung, quy mô nền kinh tế quyết định số lượng việc làm, nói cách khác là tổng cầu lao động.

Cơ cấu nền kinh tế là khái niệm để chỉ tỷ lệ các cấu phần của nền kinh tế tạo nên nền kinh tế đó. Cơ cấu nền kinh tế được coi là hợp lý, khi và chỉ khi phát huy tối ưu các lợi thế so sánh riêng có của nền kinh tế đó theo ngành, vùng và thành phần kinh tế. Theo truyền thống, cơ cấu nền kinh tế được phân theo cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế và thành phần kinh tế. Tùy theo điều kiện tự nhiên và xã hội, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn mô hình phát triển của quốc gia; từ đó hình thành nên chính sách phát triển kinh tế ngành, kinh tế vùng và phát triển các thành phần kinh tế. Việc xác định cơ cấu kinh tế theo ngành, vùng và theo thành phần có tác động trực tiếp đến cơ cấu cầu về lao động, tức là cơ cấu cung về việc làm.

1.4.2 Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Tốc độ tăng trưởng kinh tế là chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng thêm của quy mô nền kinh tế của năm tính toán so với năm gốc hoặc sản lượng thực tế so với sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.

Thông thường, khi nền kinh tế của kỳ tính toán tăng trưởng hoặc tăng trưởng cao so với năm gốc thì tạo ra nhiều việc làm hơn. Do đó, cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp cũng cao hơn. Mặt khác, theo định luật Okun, nếu sản

lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng 2% thì tỷ lệ thất nghiệp thực tế sẽ cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 1%, nghĩa là cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ bị thu hẹp; ngược lại, nếu tỷ lệ tăng của sản lượng thực tế lớn hơn tỷ lệ tăng của sản lượng tiềm năng là 2,5% thì tỷ lệ thất nghiệp thực tế sẽ giảm bớt 1% so với năm trước đó, nghĩa là cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên cũng được mở rộng.

1.4.3 Quy mô, cơ cấu và chất lượng đào tạo

Quy mô đào tạo là chỉ tiêu phản ánh số lượng sinh viên được đào tạo và tốt nghiệp hàng năm. Có hai chỉ tiêu phản ánh quy mô đào tạo, một là, tổng số sinh viên đang học tại các trường đại học; và hai là, tổng số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học hàng năm.

Cơ cấu đào tạo là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ về số lượng sinh viên được đào tạo theo chuyên ngành so với tổng số lượng sinh viên. Nếu cơ cấu đào tạo tương thích với cơ cấu cầu về lao động theo ngành, nghề của nền sản xuất thì cơ hội việc làm nói chung và việc làm thỏa đáng của sinh viên sau khi ra trường sẽ cao và ngược lại.

Chất lượng đào tạo là chỉ tiêu phản ánh mức độ trang bị các kỹ năng cơ bản cho sinh viên, bao gồm kỹ năng nhận thức, kỹ năng hòa nhập xã hội và hành vi, kỹ năng về kỹ thuật. Nếu sinh viên thuần thục ba kỹ năng nói trên thì khả năng tìm kiếm việc làm thỏa đáng cho sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ cao.

1.4.4 Các yếu tố thuộc về năng lực của sinh viên

Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính phủ đã xác định mục tiêu đào tạo của giáo dục đại học là: “Đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động...”.

Nhìn chung, có thể khái quát các yếu tố tự thân của sinh viên thành một số nhóm có tác động lớn như sau:

+ Kiến thức chuyên môn, dựa trên kết quả học tập căn cứ theo điểm trung bình, bằng tốt nghiệp; danh tiếng của cơ sở đào tạo, sự phù hợp giữa nội dung chương trình đào tạo với yêu cầu công việc và các kỹ năng bổ trợ.

+ Các kỹ năng nghề nghiệp, là kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực tập tại doanh nghiệp; kinh nghiệm thực tiễn từ các công việc làm thêm có liên quan tới chuyên ngành; thành tích học tập đặc biệt như học bổng, các giải thưởng trong học tập đạt được, các chứng chỉ liên quan, chứng chỉ quốc tế, trình độ tin học, ngoại ngữ).

+ Kỹ năng “mềm” sẽ giúp phát huy hết những kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ để nhà tuyển dụng thấy rằng người dự tuyển xứng đáng được tuyển dụng. Kỹ năng “mềm” là khả năng ứng xử, nhạy bén với công việc và giải quyết khó khăn một cách nhanh nhất có thể, hạn chế tối đa những rủi ro công việc. Kỹ năng “mềm” còn là nghệ thuật ứng xử của với các đồng nghiệp, cộng sự; với cấp trên và với tất cả mọi người quen biết.

Thông thường, kỹ năng “mềm” bao gồm những đặc trưng cơ bản:

(1) Khả năng thích nghi nhanh.

(2) Nhún nhường và nhẫn nại.

(3) Cập nhật thông tin.

(4) Tự quản thời gian.

(5) Khả năng diễn đạt trước công chúng.

(6) Kỹ năng xử trí xung đột.

(7) Kỹ năng truyền đạt thông tin.

(8) Kỹ năng về máy móc công nghệ.

(9) Khả năng lãnh đạo.

(10) Khả năng làm việc nhóm.

(11) Khả năng làm việc độc lập

Ngoài ra, còn một số yếu tố khác: Các mối quan hệ xã hội như bạn bè, người thân, thầy cô; khả năng học tập và thích ứng trong môi trường công nghệ cao; Mức thu nhập, Các hỗ trợ việc làm từ nhà trường.

1.5 Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp ở các tỉnh thành ở Việt Nam

1.5.1 Tại thành phố Đà Nẵng

Trong những năm qua, thành phố Đà Nẵng đã có bước phát triển về kinh tế - xã hội tương đối nhanh, duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế cao, 6 năm liền đứng thứ hạng cao về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tạo thuận lợi cho sự đầu tư phát triển nền kinh tế, tạo chỗ làm mới.

Giai đoạn 2012 - 2015, thành phố Đà Nẵng tiếp tục mục tiêu: phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung, là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của miền Trung và cả nước; đảm bảo tốc độ GDP bình quân tăng 13,5 – 14,5%, đến năm 2015 GDP tăng gấp 1,9 lần so với năm 2010; tạo nền tảng để xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.

Thành phố Đà Nẵng đã chủ trương đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực của thành phố trên cơ sở Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, Quy hoạch phát triển dạy nghề đến năm 2020, Quy hoạch phát triển ngành giáo dục..., đặc biệt là nguồn nhân lực đào tạo nghề; phấn đấu đào tạo 168.000 - 180.000 lao động, bình quân đào tạo 42.000 - 45.000 lao động/năm; với tỷ lệ đào tạo dài hạn ít nhất 38% (trong đó trình độ: trung cấp nghề 28%, cao đẳng nghề 10%). Để đạt được những mục tiêu đó, cần tập trung một số việc sau:

- Xúc tiến đầu tư một số trường dạy nghề trọng điểm hướng đến tiêu chuẩn quốc tế và khu vực; trong đó có từ 3 đến 5 nghề đào tạo lĩnh vực công nghệ cao đạt chuẩn quy định. Trước mắt, thành phố xúc tiến đầu tư Trường Cao đẳng nghề Đà Nẵng ở địa điểm mới, đủ điều kiện để phát triển thành trường chuẩn khu vực và quốc tế. Tác động và tạo điều kiện để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đầu tư mạnh cho Trường Cao đẳng Du lịch Đà Nẵng đạt chuẩn khu vực và quốc tế, đảm bảo được chức năng kiểm định nghề và đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực thế mạnh của nền kinh tế Đà Nẵng và khu vực ven biển miền Trung.

- Tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống có nhu cầu về trình độ công nhân kỹ thuật, có thu nhập cao; hạn chế thị trường có nhiều rủi ro. Trước hết tập trung vào các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản. Đồng thời, tăng cường tham gia thị trường lao động ngư nghiệp đánh bắt gần bờ ở Hàn Quốc (do Hiệp hội thủy sản Hàn Quốc tuyển), phù hợp với trình độ và nghề nghiệp của người lao động là ngư dân ven biển.

- Tổ chức các khóa đào tạo định hướng xuất khẩu lao động kịp thời; hỗ trợ kinh phí đào tạo định hướng cho con em hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ và hộ di dời giải tỏa mất đất sản xuất để đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.

- Hỗ trợ vay vốn để đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; ngoài vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội theo mức quy định, vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo khả năng thế chấp, thành phố hỗ trợ cho vay thêm bằng vốn ủy thác của thành phố thông qua Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội theo nhu cầu của từng lao động và theo mức tổng chi phí.

- Tăng cường công tác tuyên truyền xuất khẩu lao động, mở chuyên mục thường xuyên về dạy nghề giải quyết việc làm trên Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng (DRT); mỗi quý ít nhất một phóng sự về xuất khẩu lao động.

- Tổ chức điều tra, xây dựng và hoàn thiện phần mềm cơ sở dữ liệu về cung lao động. Hoàn thiện bản đồ lao động và số hóa bản đồ này để thông tin trên mạng internet và phục vụ công tác quản lý trên toàn thành phố.

- Hàng năm, điều tra thông tin cơ sở dữ liệu về cầu lao động theo tiêu chí điều tra cầu lao động đối với doanh nghiệp và người lao động.

- Tổ chức công tác dự báo về thị trường lao động định kỳ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để định hướng phát triển và có chính sách phát triển thị trường lao động theo hướng tích cực.

- Nâng cao năng lực công tác dịch vụ việc làm; có đủ năng lực và điều kiện tư vấn cho 15.000 - 17.000 lao động/năm.

- Tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng các phiên chợ việc làm định kỳ; tiến tới tổ chức sàn giao dịch định kỳ mỗi tuần 1 lần, tổ chức chợ di động ít nhất 3

lần/năm; giải quyết việc làm tại chợ việc làm cho ít nhất 20 - 25% tổng số lao động được giải quyết việc làm.

- Phát huy vai trò của Trung tâm Giới thiệu việc làm vùng; gắn kết, phối hợp cung cấp thông tin, dự báo cung - cầu lao động để có giải pháp cho công tác giải quyết việc làm của thành phố.

- Tổ chức thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về việc làm, dạy nghề và học nghề, thị trường lao động.

- Cung cấp thông tin về số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường, tổ chức đăng ký nhu cầu tìm việc làm, nhu cầu đi xuất khẩu lao động; phối hợp với các ngành, địa phương, doanh nghiệp xúc tiến các hoạt động đào tạo, tìm việc làm cho sinh viên, học sinh khi tốt nghiệp ra trường.

- Các cơ sở dạy nghề tham gia công tác tuyển sinh học nghề ở các phiên chợ việc làm để cung cấp thông tin, tư vấn về đào tạo nghề cho người lao động.

Như vậy, với tiềm lực về kinh tế, chính trị, xã hội, Thành phố Đà Nẵng đã có nhiều chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao động nói chung và sinh viên sau tốt nghiệp nói riêng nhiều cơ hội có việc làm thích hợp, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức với nhóm sinh viên phải không ngừng học hỏi nâng cao kỹ năng nghề có thể đáp ứng được với yêu cầu của thời đại mới.

1.5.2 Tại tỉnh Đăk Nông

Những năm qua, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nội dung được Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh quan tâm, chỉ đạo triển khai với nhiều chương trình, giải pháp thiết thực và có hiệu quả, tạo sự chuyển biến tích cực, chất lượng lao động đã được nâng lên. Đến cuối năm 2013, tỷ lệ lao động qua đào tạo tham gia hoạt động kinh tế đạt 32,5% (tăng 8,9% so với năm 2009), trong đó số lao động qua đào tạo nghề đạt 27%; số cơ sở dạy nghề đã tăng từ 12 cơ sở năm 2009 lên 19 cơ sở năm 2013; bình quân mỗi năm có khoảng 5.000 lao động được đào tạo nghề, trong đó trên 70% lao động sau khi học nghề có việc làm, thu nhập bảo đảm ổn định cuộc sống.

Giải quyết việc làm: Giai đoạn 2009 – 2013 đã giải quyết việc làm cho 84.486 lao động (bình quân giải quyết việc làm cho 16.897 người/năm); Hoạt động cho vay vốn Giải quyết việc làm: Giai đoạn 2009 – 2013, nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm được Trung ương và tỉnh bổ sung là 24,760 tỷ đồng để cho vay theo các dự án hỗ trợ việc làm. Kết quả 5 năm (2009 – 2013) có 1.986 dự án được duyệt, với số tiền vay quay vòng trên 82,059 tỷ đồng; Hoạt động Tư vấn – Giới thiệu việc làm: Các Trung tâm Giới thiệu việc làm hoạt động trên địa bàn tỉnh đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho trên 19.208 lượt người, trong đó có trên 2.750 người tìm được việc làm, chiếm 3,25% số người được giải quyết việc làm.

Các cấp, các ngành trong tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với nhiều giải pháp tổng hợp, sát thực tế và hiệu quả; thường xuyên, liên tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân và người lao động hiểu rõ trách nhiệm nhà nước và nhân dân cùng tạo việc làm.Bên cạnh đó, Quy mô tuyển sinh dạy nghề tăng nhanh, các loại hình và hình thức dạy nghề phát triển đa dạng và phong phú, chất lượng dạy nghề được nâng lên. XKLĐ đã giúp cho một bộ phận người lao động và gia đình cải thiện đời sống, có nguồn vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, xây dựng, sửa sang nhà cửa.

Công tác thông tin thị trường lao động đã có chuyển biến tích cực, cơ sở dữ liệu cung, cầu lao động được cập nhật đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động tiếp cận, đáp ứng nhu cầu của cả hai phía.

Như vậy, mặc dù còn nhiều khó khăn về địa lý và kinh tế nhưng tỉnh Đăk Nông cũng đang cố gắng xây dựng những giải pháp, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho người lao động nói chung và sinh viên sau tốt nghiệp nói riêng nhiều cơ hội có việc làm thích hợp, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức với nhóm sinh viên phải không ngừng học hỏi nâng cao kỹ năng nghề, ngoại ngữ mới đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp đặt ra.

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Nội dung chương 1 đã nêu khái quát các khái niệm về việc làm, lao động, thất nghiệp, sinh viên, các lý thuyết kinh tế về việc làm, quan điểm của Mác – Lênin cũng như của Đảng, Nhà nước về vấn đề việc làm và thất nghiệp, các yếu tố tác động đến chính sách giải quyết việc làm, các kinh nghiệm giải quyết việc làm tại các địa phương.

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Phương pháp nghiên cứu để thực hiện đề tài sẽ được trình bày trong chương này.

Các nội dung quan trọng của chương bao gồm:

Nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng được sử dụng. Nghiên cứu định tính dùng thông qua hình thức phỏng vấn trực tiếp các chuyên gia, giảng viên đại học và phỏng vấn nhóm sinh viên để kiểm tra và phát hiện các yếu tố có liên quan đến việc định hướng nghề nghiệp, tìm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ hiêụ chỉnh bảng câu hỏi. Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua việc thống kê mô tả các yếu tố có ảnh hưởng đến việc định hướng nghề nghiệp, tìm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

2.1 Quy trình thực hiện nghiên cứu

Nghiên cứu

lý thuyết

Xây dựng bố cục khai

thác dự kiến

Thảo luận, nghiên

cứu định tính

Nghiên cứu định lượng

Điều chỉnh, xây dựng bố cục khai

thác chính thức

Tiến xử lý dữ liệu

- Truy xuất dữ liệu bằng công cụ SQL

- Loại bỏ các trường thông tin rác

- Làm sạch và bổ sung thông tin mix

Chuẩn bị dữ liệu cho các

hình thức nghiên cứu

Chọn ngẫu nhiên 600 mẫu cho Phỏng vấn qua online, và mẫu thay thế cho các đối

tượng từ bỏ

Báo cáo

kết quả nghiên cứu

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Hình 2.1: Quy trình nghiên cứu

2.2 Giải thích các nhóm thông tin cần thu thập

Nhằm tìm kiếm những nguyên nhân khiến SV gặp khó khăn khi tìm kiếm việc làm sau tốt nghiệp, đồng thời cũng muốn phát hiện những yếu tố sẽ giúp sinh viên nhanh chóng kiếm được một việc làm ổn định, tác giả tiến hành lựa chọn các nhóm thông tin thu thập có sức ảnh hưởng nhiều nhất đến khả năng có việc làm của các sinh viên. Sau khi tham khảo một số tài liệu trên các thư viện điện tử, báo chí, dựa vào tham luận của PGS.TS. Đỗ Văn Dũng – Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. HCM – tại hội nghị “Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học” được Bộ GD-ĐT tổ chức ngày 7/1/2017 tại Đà Nẵng, đề tài “Định hướng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp” của học viên Võ Tấn Đạt, đặc biệt là nghiên cứu “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng có việc làm của sinh viên Đại học Ngoại thương sau khi tốt nghiệp” tác giả đã đưa ra các nhóm thông tin chính cần thu thập sau đây:

2.2.1 Thông tin về Trình độ học vấn và Danh tiếng trường học

Tấm bằng đại học là cách để ghi nhận trình độ học vấn của mỗi sinh viên trong quá trình học Đại học. Tuy nhiên, có nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp cho rằng tấm bằng tốt nghiệp, điểm học tập dù có cao hay thấp cũng không hề liên quan gì đến quá trình tìm việc làm của mình. Nhận thấy tầm quan trọng của việc làm rõ và có kết quả phân tích xác thực quan điểm trên, tác giả đưa nhóm thông tin này vào nghiên cứu với các thông tin cụ thể cần thu thập như sau:

- Xếp loại tốt nghiệp;

- Điểm trung bình học tập;

- Trình độ tiếng Anh: với hai thông tin chi tiết thu thập là văn bằng/chứng chỉ tiếng anh và điểm tiếng anh cao nhất đã đạt được.

2.2.2 Thông tin về Kỹ năng Thực hành xã hội và các Kỹ năng khác ngoài chuyên môn

Viện nghiên cứu giáo dục (Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh) có công bố nhận định gây chú ý: hơn 80% Học sinh Sinh viên lạc quan và có nhiều ước mơ đẹp cho tương lai nhưng lại thiếu hẳn khả năng hoạch định tương lai, đặc biệt là kỹ năng

mềm và thái độ dám dấn thân vào đời. Nhận định này đúc kết từ cuộc điều tra, khảo sát về nhận thức và thái độ của học sinh, sinh viên về định hướng tương lai trên

2.000 Học sinh Trung học phổ thông, Sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ. Anh Quách Hải Đạt - giám đốc Trung tâm Hỗ trợ học sinh sinh viên TP. Hồ Chí Minh chỉ ra một loạt nguyên nhân dẫn đến sinh viên yếu kỹ năng: “Chúng ta chưa thật sự nhận thức được rằng công tác đào tạo kỹ năng là hoạt động trọng tâm, có ý nghĩa thiết thực, cũng như chưa có một cơ chế phối hợp thật sự linh hoạt giữa các đơn vị để có định hướng đào tạo kỹ năng tương ứng các nhóm ngành một cách phù hợp nhất". Nhận thấy tầm quan trọng của việc làm rõ và có kết quả phân tích xác thực quan điểm trên, tác giả đưa nhóm thông tin này vào nghiên cứu với các thông tin cụ thể cần thu thập như sau:

- Mức độ tham gia các hoạt động ngoại khóa;

- Mức độ tham gia các công việc bán thời gian;

- Các kỹ năng mềm/chứng chỉ, văn bằng ngoài chương trình học.

2.2.3 Thông tin về Quan hệ xã hội và Điều kiện kinh tế

Bên cạnh các phương pháp tìm kiếm việc làm chính thức qua các kênh quảng cáo, dịch vụ việc làm, ứng tuyển trực tiếp… người lao động còn sử dụng các mối quan hệ xã hội như là một kênh không chính thức hiệu quả. Nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước bên cạnh việc đồng thuận còn có những tranh luận xoay quanh. Nhận thấy tầm quan trọng của việc làm rõ và có kết quả phân tích xác thực quan điểm trên, tác giả đưa nhóm thông tin này vào nghiên cứu với các thông tin cụ thể cần thu thập như sau:

- Mối quan hệ với những người làm về Tuyển dụng;

- Mối quan hệ với những người có chức – quyền tại các địa phương, doanh nghiệp;

- Các kỹ năng mềm/chứng chỉ, văn bằng ngoài chương trình học;

- Công việc của Bố và Mẹ.

Ngày đăng: 15/04/2022