Việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp đại học - Nghiên cứu điển hình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 2


sở khoa học, lý luận cũng như thực tiễn khi triển khai nghiên cứu chính sách việc làm cho sinh viên ở Thành phố Hà Nội được thuận lợi hơn.

3. Mục tiêu của đề tài

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm:

- Tìm hiểu về định hướng việc làm của sinh viên các trường Đại học sau khi tốt nghiệp của các trường đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến định hướng chọn việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

- Đề xuất các giải pháp cho Nhà trường, cho Sinh viên và chính sách hỗ trợ của cơ quan chức năng nhằm hỗ trợ việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi của đề tài

Đối tượng nghiên cứu: sinh viên năm ba, năm tư của các trường Đại học tại TP.Hồ Chí Minh.

Phạm vi nghiên cứu: đề tài sẽ thực hiện tại 7-10 trường Đại học ở Tp. Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lenin:

- Phương pháp biện chứng duy vật: là một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xác định phạm vi, khả năng áp dụng các yêu cầu, phương pháp một cách hợp lý và có hiệu quả.

- Phương pháp hệ thống: phân chia đối tượng mà hoạt động nhận thức và thực tiễn tác động đến các yếu tố, xác định môi trường mà khách thể tồn tại; phát hiện được những mối quan hệ, liên hệ tất yếu, ổn định giữa các yếu tố; xác định các thuộc tính tổng hợp và phát hiện ra tính hướng đích của hệ thống và xu hướng phát triển của khách thể hệ thống.

- Phương pháp logic thống nhất với lịch sử: tổng hợp trong mình những nguyên tắc (quan điểm), yêu cầu mang tính phương pháp luận của toàn bộ triết học Mác –

Lenin, mà cốt lõi là phép biện chứng duy vật. Nhận định trong V.I.Lenin: TT.T.39.NXB Tiến Bộ.M.1984, tr.78 “Một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó trải qua những giai đoạn phát triển nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Từ cơ sở lý thuyết đó trong quá trình nghiên cứu cần đảm bảo tính logic thống nhất với lịch sử để phân tích thực trạng, nhận định và đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp tại các trường Đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành thông qua hai bước:

Bước 1: Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện với nhiều phương pháp: nghiên cứu định tính với hình thức phỏng vấn trực tiếp và thảo luận nhóm với một số sinh viên đang học tại trường Đại học tại TP. Hồ Chí Minh. Ở bước này, cũng thực hiện phỏng vấn sơ bộ một số chuyên gia đồng thời tham khảo các dữ liệu thứ cấp. Trên cơ sở đó, vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đề cương nghiên cứu và mô hình nghiên cứu được hình thành. Ngoài ra, bản câu hỏi nghiên cứu cũng được xây dựng và hoàn thiện.

Bước 2: Nghiên cứu chính thức được thực hiện thông qua việc phát phiếu khảo sát trực tuyến, khảo sát trực tiếp các đối tượng nghiên cứu. Sau khi quá trình thu thập dữ liệu kết thúc, thông tin từ các phiếu khảo sát được mã hóa và làm sạch dữ liệu sơ cấp. Tiếp theo, thống kê miêu tả trong nghiên cứu định lượng được sử dụng để tiến hành xử và phân tích dữ liệu. Kết quả nghiên cứu được trình bày dựa trên kết quả phân tích dữ liệu. Ngoài ra, phương pháp phỏng vấn trực tiếp trong nghiên cứu định tính cũng được sử dụng để làm rõ hơn về kết quả nghiên cứu cũng như góc nhìn của các chuyên gia về kết quả phân tích dữ liệu.

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Đối với Sinh viên sắp tốt nghiệp: Qua đề tài này, các bạn sinh viên năm cuối sẽ có cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề việc làm của mình trong tương lai. Từ đó có thể có những bước chuẩn bị cần thiết cho tương lai. Đồng thời, giúp giải tỏa được một

phần những lo lắng, vướng mắc cho sinh viên khi bước ra ngoài môi trường thực tế chứ không bị bó hẹp trong phạm vi nhà trường.

Đối với Nhà trường: Thông qua đề tài này phản ánh một số định hướng, mong muốn, nguyện vọng về vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, từ đó hiểu được một số khó khăn, lo lắng của sinh viên. Qua đó giúp cho nhà trường có một số hướng về giáo dục - đào tạo, hướng nghiệp nhằm giải quyết phần nào những mong muốn của sinh viên để giúp sinh viên an tâm hơn trong quá trình tìm việc làm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần lý do chọn đề tài, mục tiêu của đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đề tài có bố cục gồm 4 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm cho sinh viên tốt nghiệp đại học.

- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.

- Chương 3:Thực trạng việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh.

- Chương 4: Định hướng và giải pháp việc làm cho sinh viên tốt nghiệp đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CỦA SINH VIÊN SAU TỐT NGHIỆP

1.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và tạo việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp

1.1.1 Khái niệm về lao động và việc làm

1.1.1.1 Lao động

Khái niệm về Lao động có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng suy đến cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, là ranh giới để phân biệt con người với con vật. Bởi vì, khác với con vật, lao động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật thể của tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người.

Theo Các Mác, “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [36, tr.230, 321].

Ph.Ăng ghen viết: Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì đó vô cùng lớn lao và hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người [38, tr.641].

Như vậy, có thể nói lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người, trong quá trình lao động con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong cơ thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình. Nói cách khác, trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, lao động bao giờ cũng là điều kiện để tồn tại và phát triển của xã hội.

1.1.1.2 Việc làm

Hiện nay, có nhiều quan niệm về việc làm. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm “Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật”.

Giáo trình kinh tế nguồn nhân lực, trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó”.

Điều 9, Luật Lao động Việt Nam (2012) quy định “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.”. Theo đó, hoạt động được coi là việc làm khi hội đủ hai điều kiện: một là tạo ra nguồn thu nhập; hai là hoạt động đó không bị pháp luật cấm.

Từ điển Luật học Việt Nam, đưa ra định nghĩa “Việc làm là hoạt động lao động hợp pháp, tương đối ổn định, tạo ra thu nhập hoặc có khả năng tạo ra thu nhập”.

Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào quy mô nền kinh tế, các yếu tố tài nguyên, vốn, công nghệ và trình độ tổ chức quản lý. Một người lao động có việc làm khi họ có sức khỏe và những kỹ năng cần thiết tham gia vào một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Thông qua việc làm, người lao động thực hiện quá trình lao động tạo ra sản phẩm và thu nhập cho chính mình, cho người sử dụng lao động và cho xã hội.

Việc làm bền vững/việc làm thỏa đáng (Decent work): Theo Tổ chức Lao động thế giới (ILO), việc làm bền vững là tổng hòa những khát vọng của con người trong cuộc đời làm việc của họ, bao gồm các cơ hội việc làm sinh lợi và đem lại một thu nhập công bằng, an toàn nơi làm việc, đảm bảo an sinh xã hội cho các thành viên trong gia đình, triển vọng tốt hơn cho sự phát triển của cá nhân và hòa nhập xã hội, tự do cho mọi người bày tỏ mối quan tâm, tổ chức và tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng tới cuộc sống của họ, bình đẳng trong cơ hội và đối xử đối với cả nam và nữ. Việc làm bền vững được coi là một Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Đo lường Việc làm bền vững là mối quan tâm lâu dài của các thành viên ILO. Tuy nhiên, tính chất đa diện của Chương trình Việc làm bền vững bao gồm tiếp cận

với việc làm đầy đủ và hiệu quả với các quyền nơi làm việc, an sinh xã hội và thúc đẩy đối thoại xã hội, có nghĩa là việc đo lường rất phức tạp. Do đó, Tuyên bố của ILO về công bằng xã hội cho một tiến trình toàn cầu hóa công bằng khuyến nghị các nước thành viên có thể cân nhắc việc thành lập các chỉ số hay số liệu thống kê thích hợp, có sự hỗ trợ của ILO nếu cần thiết, để theo dõi và đánh giá tiến độ thực hiện.Theo Hội nghị ba bên của các chuyên gia tổ chức vào tháng 9/2008, Cơ quan Hội đồng đồng ý thử nghiêm một phương pháp tiếp cận toàn diện để đo lường Việc làm bền vững trong năm 2009 bằng cách kết hợp việc biên dịch định nghĩa chỉ số chi tiết và chuẩn bị hồ sơ quốc gia Việc làm bền vững được thí điểm tại một số nước. Hội nghị quốc tế Thống kê lao động lần thứ 18 đã thông qua phương pháp này. Phối hợp với Cục thống kê, các đơn vị kỹ thuật khác và các văn phòng của ILO, Bộ phận lồng ghép chính sách đang kết hợp với văn phòng để thực hiện công việc này. Bộ phận này cũng đang thực hiện dự án “Giám sát và đánh giá tiến độ về Việc làm thỏa đáng” với sự tài trợ của Liên minh châu Âu. Trong suốt giai đoạn 2009 - 2012, dự án nhằm mục đích hướng dẫn cách xác định các chỉ số Việc làm bền vững ở cấp quốc gia (dự trên kết quả của Hội nghị ba bên các chuyên gia tổ chức vào tháng 9/2008); hỗ trợ nhập số liệu; và sử dụng dữ liệu thu thập cho phân tích chính sách tổng hợp để áp dụng vào việc hoạch định chính sách một cách phù hợp. Theo ILO (trang website) hiện có 21 quốc gia đã và đang xây dựng bộ chỉ số Việc làm thỏa đáng. Nhưng đáng tiếc là Việt Nam không nằm trong số 21 quốc gia này.

Bên cạnh đó, theo tổ chức lao động thế giới (Viết tắt là ILO) thì khái niệm thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng sau:

Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian, thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng thu nhập thấp do tay nghề, kỹ năng lao động thấp, điều kiện lao động không đảm bảo, tổ chức lao động kém, cho năng suất lao động thấp thường có mong muốn tìm công việc khác có mức thu nhập cao hơn.

Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng người lao động làm việc với thời gian ít hơn quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn kiếm thêm việc làm và luôn sẵn sàng để làm việc.

Thất nghiệp: Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm, có khả năng lao động, hay nói cách khác là sẵn sàng làm việc và đang đi tìm việc làm. Theo nguyên nhân, thất nghiệp được chia thành các loại:

- Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển là thất nghiệp xẩy ra khi tiền lương được ấn định cao hơn mức tiền lương ở điểm cân bằng của thị trường.

- Thất nghiệp chu kỳ là mức thất nghiệp tương ứng với từng giai đoạn trong chu kỳ kinh tế, do trạng thái tiền lương cứng nhắc tạo ra và sẽ mất đi trong dài hạn.

- Thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp bình thường mà nền kinh tế phải chấp nhận, là dạng thất nghiệp không mất đi trong dài hạn, tồn tại ngay cả khi thị trường lao động cân bằng. Thất nghiệp tự nhiên bao gồm: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu.

- Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do di chuyển không ngừng của sức lao động giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.

- Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động, việc làm. Sự không ăn khớp giữa số lượng và chất lượng đào tạo và cơ cấu về yêu cầu của việc làm, mất cân đối giữa cung và cầu lao động.

1.1.1.3 Tạo việc làm

Theo PGS.TS Trần Xuân Cầu (2003), giáo trình kinh tế nguồn nhân lực, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân: “Tạo việc làm là quá trình tạo điều kiện kinh tế xã hội cần thiết để người lao động có thể kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất, nhằm tiến hành quá trình lao động, tạo ra hàng hoá dịch và dịch vụ theo yêu cầu thị trường” [11, tr.377].

“Tạo việc làm là một quá trình tạo môi trường hình thành các chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời phải đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước”.

“Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào việc làm để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của thị trường”.

Có thể hiểu tạo việc làm là tổng hợp những hoạt động cần thiết để tạo ra những chỗ làm việc mới, giúp người lao động chưa có việc làm có được việc làm; tạo thêm việc làm cho những người lao động đang thiếu việc làm và giúp người lao động tự tạo việc làm.

1.1.1.4 Giải quyết việc làm

Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.

Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nuôi sống bản thân và gia đình góp phần phất triển quê hương đất nước.

Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết việc làm phải được xem xét ở cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò nhà nước.

Vì vậy, “giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm”.

1.1.2 Khái niệm về Sinh viên

Thuật ngữ “Sinh viên” được bắt nguồn từ một từ gốc Latinh: “Students” với nghĩa là người làm việc, học tập, tìm hiểu, khai thác trí thức (Theo Từ điển Bách khoa thư – tiếng Nga).

Theo Wikipedia thì “Sinh viên” là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một

ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. Quá trình học của họ theo phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc tiểu học và trung học.

Còn từ góc nhìn của chính bản thân sinh viên thì “Sinh viên” là người đến trường để học một cái gì đó. Sinh viên cũng được chia thành nhiều dạng: Họ đến trường vì họ phải đến, họ đến trường vì họ chẳng còn gì khác để làm và một nhóm khác là đến trường vì thực sự muốn học được một cái gì đó, vì họ biết sẽ không có tương lai nếu không học.

Camelia (SV khoa Tâm lý học, Rumani) định nghĩa về sinh viên như sau: “Một SV hiện đại phải là người mà ngoài chuyên môn của mình, phải học để biết cả nhũng chuyên ngành khác, bất kỳ một chuyên ngành nào mà mình thích là học. Một SV hiện đại phải định hướng lại để đáp ứng những nhu cầu của chính xã hội ở nước mình chứ không phải nhu cầu của bản thân hay của một nước phát triển hơn”.

Sinh viên là nguồn nhân lực quan trọng của sự phát triển đất nước. Nếu được đào tạo tốt, sau khi tốt nghiệp, họ là những người lao động có tri thức, có kỹ năng, có ý thức tổ chức kỷ luật.

1.1.3 Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp

1.1.3.1 Khái niệm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp

Là hoạt động lao động của sinh viên sau khi tốt nghiệp tạo ra thu nhập tương xứng với trình độ được đào tạo và không bị pháp luật cấm.

1.1.3.2 Nội dung

Sinh viên, sau khi ra trường, họ trở thành những lao động đã được qua đào tạo ở các cấp bậc, do vậy, họ có nhu cầu tìm được việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn và có thu nhập tương xứng với trình độ đó.

Vấn đề việc làm của họ trong điều kiện ngày nay cũng không thể nằm ngoài nguyên tắc của thị trường “tiền nào của đó”. Chính vì vậy, để có đủ việc làm phù hợp với các ngành nghề mà họ đã được đào tạo và khả năng họ đáp ứng được đến đâu yêu cầu của các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động là vấn đề đang được xã hội rất quan tâm.

1.2 Các lý thuyết kinh tế về việc làm

Khi xem xét quan hệ cung – cầu và sự biến động của lực lượng lao động ta có thể vận dụng các mô hình việc làm, cung cầu, dịch chuyển lao động, gia tăng và biến động việc làm. Các mô hình kinh tế có liên quan đến việc làm, thất nghiệp nổi tiếng như: Lý thuyết tiếp thị địa phương, Trường phái cổ điển (A.Smith và D.Ricardo), Lý thuyết việc làm của J.M.Keynes, Lý thuyết việc làm và thất nghiệp của C.Mác mà ngày nay còn ảnh hưởng đến chính sách việc làm của nền kinh tế.

1.2.1 Lý thuyết tiếp thị địa phương

Tiếp thị địa phương được định nghĩa là: “Một kế hoạch tổng hợp đồng bộ giới thiệu về một địa phương với những đặc điểm nổi bật, các ưu thế hiện có và viễn cảnh phát triển lâu dài của địa phương đó nhằm thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh, những người du lịch, những cư dân đến địa phương đó tìm những cơ hội đầu tư kinh doanh hay thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng của mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội chung của địa phương”.

Kinh tế học đã nghiên cứu hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành thị và hiện tượng chảy máu chất xám của các nước thế giới thứ ba khi những người sinh viên tốt nghiệp không muốn quay về quê hương/đất nước cũ làm việc {Torado, 1998}. Lý do chính được giải thích cho hiện tượng này là cơ hội việc làm và mức thu nhập cao ở thành thị và các nước công nghiệp pháp triển.

Mặc dù đã tìm hiểu, khảo sát kỹ lưỡng trên nhiều nguồn thông tin khác nhau nhưng tác giả vẫn không tìm được các mô hình và thang đo về các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Lý thuyết tiếp thị địa phương của Kotler et al {1993} được sử dụng làm cơ sở nghiên cứu định tính.

Theo đó, sự hấp dẫn của địa phương thể hiện thông qua các hình ảnh, chính sách, cơ hội phát triển và điều kiện sống đối với dân cư nói chung, đối với sinh viên tốt nghiệp nói riêng. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp đã được phát triển và làm rõ hơn trong lý thuyết tiếp thị địa phương (Marketing Places) của Kotler, Haider, Rein {1993}.

Theo Kotler et al{1993}, có ba thành phần chính tạo nên sự hấp dẫn của một địa phương cho việc thu hút dân cư mới:

- Các vốn quý độc đáo của riêng địa phương đang có hoặc có tiềm năng nhưng chưa khai thác.

- Các dịch vụ cho những con người cụ thể và gia đình của họ, như những ưu đãi về thuế, nhà ở hấp dẫn, môi trường giáo dục tốt, chi phí rẻ, điều kiện an sinh xã hội tốt, thái độ tích cực niềm nở đối với người mới đến…

- Các dịch vụ tái định cư, nỗ lực tìm kiếm cơ hội việc làm cho người thân hay đối tác.

Các yếu tố thu hút được chia thành các yếu tố cứng và các yếu tố mềm.

Bảng 1.1 Yếu tố hấp dẫn cứng và mềm của địa phương

Yếu tố hấp dẫn cứng

Yếu tố hấp dẫn mềm

-Sự ổn định kinh tế

-Năng suất

-Chi phí

-Quan niệm về sở hữu

-Các mạng lưới dịch vụ và hỗ trợ của địa phương

-Cơ sở hạ tầng và thông tin

-Vị trí chiến lược

-Kế hoạch và chương trình khuyến khích

-Phát triển chuyên biệt

-Chất lượng cuộc sống

-Năng lực của lực lượng lao động và đội ngũ chuyên môn

-Văn hóa

-Cá nhân

-Quản lý

-Sự năng động và linh hoạt

-Tính chuyên nghiệp trong tiếp cận thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 78 trang tài liệu này.

Việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp đại học - Nghiên cứu điển hình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 2

(Ngun: Philip Kotler, 2002)

1.2.2 Thuyết kinh tế theo trường phái cổ điển (A.Smith và D.Ricardo)

A.Smith cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh tự do, bàn tay vô hình đảm bảo quân bình và hoàn hảo trong xã hội, đạt được phúc lợi cá nhân và phúc lợi chung. D.Ricardo và A.Marshall cũng cùng quan điểm khi cho rằng nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết và không thất sự cần thiết điều tiết của Nhà nước.

Mô hình cổ điển có 4 hướng để làm tăng việc làm: (i) Cải tiến tổ chức, dự báo tốt để tránh thất nghiệp cơ cấu; (ii) Hạ thấp độ phi thỏa dụng biên của lao động qua tiền lương thực tế; (iii) Tăng thêm năng suất biên vật chất của lao động trong các ngành sản xuất hàng hóa cho người ăn lương; (iv) Tăng giá hàng hóa không dành cho người ăn lương so với giá cả các hàng hóa khác.

1.2.3 Lý thuyết về việc làm của John Maynard Keynes

John Meynard Keynes được biết đến như là một nhà kinh tế lỗi lạc với công trình nổi tiếng là Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, xuất bản năm 1936. J.M.Keynes cho rằng tăng đầu tư làm tăng tổng cầu và tăng việc làm và Nhà nước có vai trò chủ động can thiệp đến tổng cầu, sản lượng và việc làm của nền kinh tế. Đồng thời khuynh hướng tiêu dùng biên và lãi suất cũng ảnh hưởng tới tập hợp cầu và xác định mức việc làm. Dẫn đến, để kích thích kinh tế, (i) Thứ nhất, giảm lãi suất cho phép tăng tín dụng; (ii) Thứ hai, xã hội hóa đầu tư (đầu tư rộng và đúng); (iii) Thứ ba, những biện pháp không ngừng tăng tiêu dùng.

Theo đó, giả thuyết của Keynes khi tính số lượng việc làm: Việc làm tương đương với đơn vị việc làm được chia nhỏ bằng các đơn vị công việc của công việc đơn giản (không có kỹ năng) và tiền lương/tiền công được xác định bằng đơn vị tiền công cho một đơn vị việc làm đơn giản (w). Khi đó công thức tính tổng tiền lương sẽ là: W = N x w, trong đó N: khối lượng việc làm. Giả thuyết như vậy cho phép đo lường khối lượng việc làm mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng lao động trình độ, kỹ năng kỹ thuật của lao động, mức độ phức tạp, trang bị vốn…

1.2.4 Lý thuyết việc làm và thất nghiệp của Các Mác

Theo Wikimedia, trong lịch sử loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện trong chế độ tư bản. Ở xã hội cộng đồng xã hội nguyên thuỷ, việc phải duy trì trật tự trong bầy đàn buộc mọi thành viên phải đóng góp lao động và được làm việc. Ngay cả trong xã hội nô lệ, chủ nô cũng không bao giờ để tài sản (nô lệ) của họ rảnh rỗi trong thời gian dài. Các nền kinh tế theo học thuyết Mác – Lênin cố gắng tạo việc làm cho mọi cá nhân, thậm chí là phình to bộ máy nếu cần thiết (thực tế này có thể gọi là thất

nghiệp một phần hay thất nghiệp ẩn nhưng đảm bảo cá nhân vẫn có thu nhập từ lao động).

Trong xã hội tư bản, giới chủ chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận, mặt khác họ không phải chịu trách nhiệm cho việc sa thải người lao động, do đó họ vui lòng chấp nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người lao động không có các nguồn lực sản xuất trong tay để tự lao động phải chấp nhận đi làm thuê hoặc thất nghiệp.

Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên ngoài như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến cho rằng thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.

Trong một bài phân tích của Redflag có đề cập đến các Mác giải thích vấn đề thất nghiệp. Ngày nay, tỷ lệ thất nghiệp 5-6% được coi là “bình thường”. Ở hầu hết phần còn lại của thế giới, ít nhất là ở các nước phát triển cũng có sự gia tăng tương tự trong tỷ lệ thất nghiệp. Tại sao lại có vấn đề này? Tại sao gần như luôn luôn có số lượng lớn những người không thể tìm được việc làm? Những lý do cơ bản là chủ nghĩa tự bản tạo ra và cần đến sự thất nghiệp. Như Các Mác đã giải thích trong các bài viết về kinh tế cách mạng của ông, sự đầu tư của các nhà tư bản có thể được chia làm 2 phần: phần thuê nhân công và phần mua hoặc thuê phương tiện sản xuất

– máy móc, nguyên liệu, nhà máy. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, 2 quy trình làm giảm phần vốn dùng để thuê nhân công. Sự cạnh tranh dẫn đến sự sát nhập: cá lớn nuốt cá bé hoặc hai công ty vừa và lớn hợp nhất để trở thành một con cá lớn hơn. Công ty sát nhập được hưởng lợi nhiều hơn về “quy mô kinh tế”, nghĩa là một

người lao động có thể vận hành một lượng vốn lớn hơn của công ty. Bất cứ ai theo dõi tin tức kinh doanh có thể để ý, cứ khi nào có sự sát nhập của hai công ty, luôn có một kết quả chắc chắn là sẽ xuất hiện sự sa thải. Quá trình khác là sự thúc đẩy nhằm tăng năng suất của các nhà tư bản do cạnh tranh gây ra. Năng suất cao hơn, theo định nghĩa có nghĩa là sản xuất một số lượng lớn hơn các sản phẩm từ một khoản đầu tư nhỏ hơn. Một cách để làm việc này là giảm lương và tăng giờ làm việc. Nhưng luôn có những giới hạn sinh lý cho việc này. Một cách khác, lâu dài hơn và về cơ bản là không giới hạn chính là cung cấp cho người lao động các máy móc và công cụ hiệu quả hơn. Nhưng nếu người lao động chuyển sang sử dụng máy móc hiệu quả hơn thì tất nhiên là ít công nhân hơn được yêu cầu sản xuất một số sản phẩm nhất định. Trong một hệ thống tư bản chủ nghĩa, công nghệ “tiết kiệm lao động” nhất định sẽ huỷ hoại công việc của một số công nhân. Điều này không có nghĩa là số lượng việc làm giảm liên tục. Các ngành cụ thể có thể tìm được thị trường mới và mở rộng, các ngành công nghiệp mới có thể tạo ra nhu cầu cần công nhân, nhu cầu về lao động tăng và giảm với những thay đổi trong chu kỳ kinh doanh. Nhưng điều đó có nghĩa là chủ nghĩa tư bản có khuynh hướng dẫn dắt người lao động ra khỏi sản xuất. Đó chính là điều kiện mà chủ nghĩa tư bản cần. Các nhà tư bản cần một nhóm công nhân mà Mác gọi là “đội quân dự trữ công nghiệp” – những người có thể được cần đến và bị ném ra theo yêu cầu thay đổi của các nhà tư bản. Khi nền kinh tế đang được cải thiện, họ cần công nhân ngay thì họ sẽ thuê một số người thất nghiệp. Khi kinh doanh bị giảm xuống, cần tiết kiệm tiền thì bỏ những người đó đi. Các nhà kinh tế học ưt bản chủ nghĩa nói về cung và cầu lao động: bất kể tình hình của nền kinh tế như thế nào, nhóm người thất nghiệp sẽ giúp giữ ổn định mức lương công nhân và các yêu cầu khác giảm xuống. Mác chỉ ra rằng “đội quân dự trữ công nghiệp trong thời kỳ đình trệ và sự bình ổn làm giảm hoạt động của đội quân lao động; trong giai đoạn sản xuất thừa và bùng nổ, nó kìm hãm sự kì vọng. Đội quân dự trữ công nghiệp là trung tâm mà theo đó luật về nhu cầu và cung ứng lao động có hiệu quả. Nó giới hạn luật này trong những giới hạn hoàn toàn thuận tiện cho sự khai thác và thống trị của giới tư bản”.

1.3 Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề việc làm và thất nghiệp

1.3.1 Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội được coi là một trong những nội dung cơ bản của triết học Mác - Lênin nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng. Trong học thuyết này, các nhà triết học mácxít đã khẳng định tính chất quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với toàn bộ đời sống tinh thần, tư tưởng của con người. Khi bàn đến những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, các nhà triết học mácxít đặc biệt đề cao vai trò của người lao động vì đó chính là nhân tố quyết định mọi quá trình sản xuất xã hội. Quan điểm đó có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.

Theo C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên và cơ bản của con người. Đó là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo ra những của cải vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân mình và phát triển xã hội. Để tiến hành sản xuất, con người phải sử dụng những tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động và những điều kiện vật chất khác. Những vật đó được C.Mác gọi là “khí quan” giúp con người có khả năng nối dài đôi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn.

Ngoài việc nhấn mạnh đến vai trò của tư liệu sản xuất - yếu tố cần thiết của mỗi quá trình sản xuất, C.Mác đã khẳng định, để quá trình sản xuất được tiến hành không thể thiếu vai trò của người lao động. Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ không có bất cứ tác dụng nào nếu không có một lực lượng xã hội để tiến hành sản xuất vật chất. Tư liệu sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có sự tác động của con người. Điều này đã được C.Mác khẳng định như sau: “Một cái máy không dùng vào quá trình lao động chỉ là một cái máy vô ích. Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số bông bị hỏng”.

Xem tất cả 78 trang.

Ngày đăng: 11/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí