Một Số Nhân Vật Ảnh Hưởng Của Phân Tâm Học Freud


xã hội mà còn có thể mất niềm tin vào cuộc đời, bởi ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người ta cũng bị bủa vây bởi sự suy đồi, sự xuống cấp của đạo đức, sự oan trái của số phận. Chọn cách sống bằng nghề ăn cắp là một sự lựa chọn duy nhất trong hoàn cảnh hiện tại của Hóm: “Thế là, rốt cục Hóm lại chỉ sống bằng nghề ăn cắp. Mà nó suy xét kỹ cũng chỉ thấy còn cả nghề ăn cắp là hơn cả, đối với một số kiếp thằng như nó” [124, tr. 993]. Trương Tửu đã lên án Nhà nước và chế độ luật pháp đương thời. Con người sống trong một xã hội như thế khiến người ta hư hỏng, xấu xa là tất yếu, không thể khác được.‌

Trương Tửu có những tác phẩm đi sâu khai thác cuộc cải biến xã hội đương thời, những cuộc va chạm quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, đặc biệt phản ánh sâu sắc những đổ vỡ, hoang mang, ngỡ ngàng của lớp người trẻ tuổi trước thực tại xã hội thời thực dân hóa cùng mặt trái của thời kỳ đô thị hóa, hiện đại hóa. Thông qua những tấn bi kịch tình yêu và gia đình, nhà văn đi sâu phân tích bi kịch con người cá nhân, con đường bần cùng hóa, bế tắc và không còn khả năng thích nghi với cuộc sống đang biến đổi mau chóng Những trang văn của ông phần nào bắt nhịp và tiếp xúc đồng đại với văn học phương Tây đương đại, ông chú trọng phân tích tâm lý con người cá nhân theo dòng ý thức, theo những ẩn ức thân phận và cả khía cạnh tính dục để làm nổi bật nội dung cần phản ánh.

3.2.3. Một số nhân vật ảnh hưởng của phân tâm học Freud

Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud, một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Phân tâm học trong nghiên cứu văn học “Phân tâm học xem hoạt động sáng tạo nghệ thuật như biểu hiện sự thăng hoa (sublimation) của những xung lực tâm lý khởi thủy và những ham muốn (về cơ bản là ham muốn tình dục tuổi thơ) bị thực tại bác bỏ, phải bù lại bằng cách tìm sự thỏa mãn ở lĩnh vực huyễn tưởng. Phân tâm học vạch ra ở lịch sử văn học một loạt những sơ đồ cốt truyện ổn định, trong đó tác giả tự đồng nhất mình với nhân vật, và mô tả: hoặc là sự thực hành những ham muốn vô thức của mình, hoặc là sự xung đột bi kịch của các ham muốn ấy với những thế lực cấm đoán về mặt xã hội hoặc đạo đức... Những mẫu mực đầu tiên về việc áp dụng phân tâm học vào xem xét văn học, nghệ thuật là do S. Freud đưa ra, tuy vậy chính ông đã cảnh cáo và chống lại việc lẫn lộn nhiệm


vụ của phân tâm học và của nghiên cứu văn học: Phân tâm học chỉ khảo sát văn học như một tài liệu có tính chất minh họa, tự thân nó không có năng lực giải thích sự khác biệt...” [5, tr. 256-257]. Một trong những tác phẩm chủ yếu của Freud trên con đường xây dựng phân tâm học là Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục". Công trình này làm rò cơ sở lí thuyết giải thích nhu cầu dồn nén và những nguồn năng lực xúc cảm nằm dưới vận động và những ứng xử có ý thức và vô thức của con người. Freud gọi năng lực đó là libido. Freud đã xem xét sự loạn dâm, thói phô bày, ác dâm,... hiện tượng có thật trong đời sống tình dục của con người... Chấm dứt thời kì tiềm ẩn của đời sống tình dục, chứng minh cho sức mạnh đời sống vô thức.

Dưới sự ảnh hưởng của phân tâm học, một số nhân vật trong tác phẩm của Trường Tửu được tái hiện qua đời sống tình dục, đó là những đam mê xác thịt, nó chi phối mọi hành vi, ý nghĩ. Ông tạo dựng ra những nhân vật nam nữ thanh niên với một ham muốn nhục dục “Phàm một người con gái phải trải qua một thời kỳ mà cơ thể kêu gào một khoái cảm, khoa học gọi là thời kỳ động tình. Trong thời kỳ đó, không gì làm người con gái hoạt bát, có duyên, tươi tỉnh, lẳng lơ bằng đứng trước mặt một người con trai” [120, tr. 69]. Vậy phải chăng quá trình trụy lạc hóa của những thanh niên nói chung và Liêu nói riêng trong Thanh niên S.O.S còn có những nguyên nhân từ phía nhu cầu đời sống tình dục cá nhân của con người, cái mà văn chương, giáo dục gia đình và xã hội đương thời thường né tránh, ít dám đề cập tới, thậm chí cho đến hôm nay vẫn còn là điều kiêng khem, cấm kỵ đối với nhiều người? Phải chăng đây là quá trình vật lộn, giằng giật một mất một còn giữa cái The Ego và cái The Id (cái tôi và cái siêu tôi - chữ dùng của Sigmund Freud) ở Liêu. Trong cuộc vật lộn đó, cái siêu tôi luôn tạo nên áp lực ức chế đối với cái tôi. Nhu cầu tình dục là quá trình tìm kiếm những cảm giác khoan khoái nhằm chống lại cái siêu tôi trong đời sống tâm lý cá nhân đã bị xã hội tước đoạt đi một cách vô thức. Mặt khác, trong trường hợp này, cái tôi luôn là kẻ bị trừng phạt và bị bỏ rơi bởi cái siêu tôi. Sự lôi kéo của những người bạn càng làm tăng thêm ham muốn đó trong Liêu. Cũng chính vì ham muốn tình dục mà Thi bất chấp cả những luân thường đạo lý không buông tha cho cả em vợ mình.


Là người thuộc văn phái tả chân, Vũ Trọng Phụng đã đề cập trực tiếp đến khái niệm Tính dục (thời đó gọi là Dâm) và phân định khá rò nội dung cũng như ý nghĩa xã hội và giá trị nhân bản của khái niệm này. Thái độ chung của nhiều xã hội, Đông hay Tây trước đây, là né tránh mọi sự bàn luận công khai về tính dục, thậm chí về cơ thể con người. Trong những dòng đầu Lời tựa cuốn Làm đĩ, Vũ Trọng Phụng đã nói rò quan niệm của mình về Tính dục. “…Cái dâm tự nó không xấu, mà nó là cái điều cao thượng đẹp đẽ và linh thiêng vô cùng, vì nhờ nó mà loài người không tiêu diệt, nhờ nó mà có chúng ta đây. Tác giả xin để Freud cắt nghĩa cho các ngài nghe rằng sự dâm có điều bẩn thỉu không đáng nói đến chăng, tưởng là đã đủ. Vậy thì, thưa các ngài. Ôi! Hỡi người đọc ta, phường đạo đức giả mà giống hệt ta! Tại làm sao cái điều ấy, cái điều mà người ta tự cho mình là đúng đắn, đạo đức không dám nói ra miệng bao giờ, thì chính là cái điều mà bất cứ lúc nào người ấy cũng có thể phải nghĩ thầm trong bụng? Cái dâm thuộc về cái quyền sinh lý học, luân lý không kiềm chế nổi”. Ông thường nói về cái dâm và nạn mãi dâm. Chủ nghĩa Freud cho rằng: ý thức bị tiềm thức chi phối và nội dung của tiềm thức là cái Libiđô nghĩa là bản năng nhục dục. Cái Libiđô tình dục đó đã chi phối mọi hành vi hoang dâm, ngoại tình đĩ điếm trong nhân vật của ông. Gần 300 trang, thông qua chủ đề về một cô gái sa ngã, Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến nhiều vấn đề xã hội lớn vẫn còn nóng cho tới ngày nay: Trách nhiệm của người cầm bút, nguyên nhân các tệ nạn xã hội và nhất là kêu gọi giáo dục thanh thiếu niên (về mặt giới tính) như là một biện pháp hiệu quả nhất để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của tuổi trẻ.‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.

Cả Trương Tửu và Vũ Trọng Phụng đều ảnh hưởng phân tâm học Freud khi đưa nhục dục ham muốn của con người vào trong tác phẩm của mình, thông qua đó phản ánh cái thối nát của xã hội để thức tỉnh những con người lạc lối, nhằm kêu gọi tầng lớp thanh niên đừng lãng phí thời gian mà hãy đứng lên đấu tranh chống lại những cám dỗ tầm thường, chống lại những âm mưu của kẻ thù dân tộc.

3.3. Cảm hứng chủ đạo trong văn xuôi Trương Tửu

Văn xuôi Trương Tửu trong tiến trình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX - 14

Cảm hứng “là trạng thái tâm lý đặc biệt khi có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng sáng tạo, hoạt động có hiệu quả” [108, tr. 106]. Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm


xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Beelinxki coi cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành”. Lý luận văn học xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng cảm xúc ở nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả. Theo nghĩa này “cảm hứng chủ đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất với tất cả các cấp độ và yếu tố nội dung tác phẩm. Đây là cái mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế giới quan của mình trong tác phẩm” [44, tr. 45].‌

Nhà văn Trương Tửu đã nắm bắt nguồn cảm hứng một cách xâu chuỗi từ cảm hứng phê phán đến cảm hứng bi kịch. Bắt nguồn từ cái nhìn chân thực về đời sống xã hội đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho một cây bút văn xuôi chân chính và có trách nhiệm trước tác phẩm của mình khi ra mắt độc giả.

3.3.1. Cảm hứng phê phán

Phê phán là “vạch ra cái sai trái để tỏ thái độ không đồng tình hoặc lên án” [108, tr. 776]. Từ quan niệm về phê phán, nhà văn khơi nguồn cảm hứng này để viết nên tác phẩm nhằm thể hiện thái độ của chính mình một cách cụ thể nhưng lại hết sức khách quan trước những diễn biến của con người, xã hội.

Trương Tửu phê phán, lên án và tố cáo xã hội, phê phán lối sống của những người được trang bị học thức nhưng lại lầm đường lạc lối, dấn thân vào những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng trong tiểu thuyết Thanh niên S.O.S. Nhà văn phê phán những kẻ có tiền, có quyền sẵn sàng bán lương tâm cho quỷ dữ để tước đoạt sự trong trắng của một cô gái đáng thương trong Khi người ta đói, cũng trong tác phẩm này ông phê phán những kẻ sử dụng lao động đã luôn ăn chặn, luôn dồn người lao động vào bước đường cùng khiến họ phải giành giật đấu tranh để cố gắng giữ được lương thiện.

Trong xã hội mục nát và đầy rẫy những thói hư tật xấu đang hủy hoại thanh niên, nhà văn mang mong muốn cứu vãn được tư tưởng của tầng lớp thanh niên


lúc đó nên ông đã ẩn mình vào vị bác sĩ để đưa ra giải pháp “chỉ có một cách dứt bỏ được sự trụy lạc của thanh niên là phá đổ tận gốc các xã hội mục nát hiện thời đi” [120, tr. 118]. Với văn học hiện đại, Thanh niên S.O.S (1938) là tiếng kêu cứu của một thế hệ thanh niên đang suy sụp vì sự rối loạn của thời đại. Thông qua tác phẩm, Trương Tửu không chỉ phê phán những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai, mà còn kín đáo phê phán những cổ hủ, lạc hậu của tư tưởng phong kiến khiến người phụ nữ trở thành nạn nhân trong xã hội đó như Sâm trong Thanh niên S.O.S, nhân vật Hậu trong Khi chiếc yếm rơi xuống, Tuất trong Đục nước béo cò. Họ chỉ vì bị cha mẹ ép phải lấy người không yêu thương làm chồng, vì người cha tranh giành kiện tụng để có vị trí trong thôn xã khiến gia tài tiêu tán, gia đình nát tan, cụ Đội là cha của Tuất chỉ vì món tiền để khao làng lên lão theo “lệ làng” [120, tr. 503] mà cụ gần như ép con gái lấy anh rể, cam phận làm lẽ chính chị gái ruột. Từ những định kiến của xã hội cũ đã khiến thanh niên càng đến gần với sự sa ngã, với tư tưởng bế tắc.

Không chỉ có vậy, ở một số tác phẩm nhà văn còn lên án, phê phán lối sống, cách cư xử của mỗi thành viên trong đời sống gia đình. Với nguồn cảm hứng này, có nhiều tác giả khi sáng tác đã đề cao giá trị nhân văn giữa con người với con người như Ngô Tất Tố xây dựng hoàn cảnh vợ chồng chị Dậu bị bắt bớ, đánh đập vì chưa nộp đủ tiền sưu thuế nhưng tình chồng nghĩa vợ ở họ vẫn đằm thắm sẻ chia. Chị Dậu vùng lên đánh lại tên lính khi thấy hắn đánh đập chồng mình. Nam Cao xây dựng hình ảnh Thị Nở nấu bát cháo hành cho Chí Phèo… Trương Tửu lại khác, ông đã nhìn thấu mặt trái của xã hội với những méo mó, lệch lạc của đời sống gia đình trong xã hội tư sản thành thị. Tất cả hiện thực đó được ông mở ra như một cuốn phim quay chậm về những mảnh vỡ của hôn nhân không thể cứu vãn như trong gia đình chị em Quế Hương và Liêu với cảnh bố mẹ ly thân, người cha bỏ lại vợ, con để đi ở với người đành bà khác, điều này đã ảnh hưởng nhiều đến chàng thanh niên vốn ngoan hiền, say mê học hành. Liêu thiếu đi người cha đồng nghĩa thiếu đi một sự dạy bảo khiến anh ta trở thành hư hỏng, thân đầy tật bệnh. Đến gia đình vợ chồng Thông Thúy tan vỡ trước những đòi hỏi nổi loạn của


Thúy với nhu cầu về nhục dục và cả nhu cầu về vật chất. Thúy đã ngoại tình bỏ lại tổ ấm sau lưng không cần mảy may suy nghĩ để kết thúc là cái chết trong giông gió của cơn biển lộng.

Bên cạnh đó ông phê phán tình cảm chị em gái ruột thịt đã bị lối sống thực dụng chi phối. Những truyền thống “chị ngã em nâng”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” nhường chỗ cho sự ích kỉ, hẹp hòi và kết thúc là chị em hủy hoại lẫn nhau như Thi đối Tuất trong Đục nước béo cò. Tình cảm chị em giữa họ được nhà văn khắc họa chân thực và để họ xuất hiện đồng hành cùng với nhều ngôn từ dung tục. Lời của Thi chửi rủa em mình là “Con đĩ voi giầy kia! Con giời đánh kia” [120, tr. 505], “Đồ đĩ rạc đĩ rầy”[117, tr. 510], Liễu với Nguyệt trong Một kiếp đọa đày, Liễu nuôi nỗi hận thù cô em gái, còn em cô thì kênh kiệu, đỏng đảnh, coi thường người chị đáng thương, Nguyệt có những hành động không thể chấp nhận ở một người em “Lấy ngón tay trỏ ấn vào má Liễu”, cô còn chì chiết người chị kém may mắn “Giời đã bắt cái mồm méo sệch thế này mà còn lắm nhời…” [120, tr. 524]. Đối với Nguyệt sự ích kỉ đã đánh mất tình yêu thương của cô từ lúc nào “Từ lúc bắt đầu cuộc ồn ào này, Nguyệt lấy làm khó chịu. Nàng còn phải bận óc về nhiều cái khác hơn về cái số kiếp người chị tàn tật kia - bận tính toán công việc sắm áo cưới chẳng hạn. Trong cái tâm hồn nhỏ hẹp ấy không có chỗ để cho một tình cảm vị tha nào đặt chân vào được” [120, tr. 530]. Biết chị viết thư nặc danh phá hoại hạnh phúc của mình, Nguyệt đã không có được lòng độ lượng vị tha để tha thứ cho người chị để rồi kết cục Liễu đã “ghé răng vào môi Nguyệt, ngoạm một miếng, nghiến thật mạnh… Đứng nhìn môi em rách tung, Liễu thỏa sướng vô cùng” [120, tr. 555]. Chị em cắn xé lẫn nhau (cắn xé được sử dụng cả hai nét nghĩa) là do đâu? Có phải bản chất con người là căn nguyên dẫn tới cuộc chiến trong gia đình hay còn lý do nào khác? Nhà văn tài tình ở chỗ đó, ông khai thác mọi khía cạnh của cuộc sống để lên án khi tình cảm, trách nhiệm con người đối với tổ ấm gia đình xuống cấp. Trương Tửu đã nêu ra vấn đề và để ngỏ câu trả lời cho đến tận xã hội ngày nay. Nội dung phán ánh trong tác phẩm không chỉ đúng trong xã hội đương thời mà trong xã hội hiện đại với sự bùng nổ của nền công nghệ thông tin như hiện nay chưa hẳn không tồn tại những gia đình như vậy.


Đặc biệt, ở một số tác phẩm Trương Tửu phê phán người làm cha, làm mẹ đã đối xử tàn độc với con cái dưới những hình thức hành động hay lời nói. Ông phê phán cách dạy bảo con cái độc đoán như người cha của Nguyệt Minh đã đánh cô không thương tiếc, đến nỗi sẹo đầy mặt, chột cả mắt và bị bệnh tim sau trận đòn chỉ vì để cấm cản con gái yêu chàng trai có tên là Huấn trong Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy, “Ông Bá đánh Nguyệt Minh chán tay rồi bỏ xuống nhà dưới. Nàng nằm đờ trên giường như người hấp hối, thân thể đau đớn. Đang nằm nàng lại thấy ông Bá lên. Rồi ông lại đánh nàng một trận nữa. Nàng chết ngất đi. Người nhà phải xô nhau lại phun nước lã vào mặt, giật tóc mai nàng mới tỉnh.

Hôm sau nàng không ăn uống gì được, mình mẩy thâm tím như người tội phạm bị tra tấn ở buồng thú tội. Nhất là ngực nàng đau dữ lắm. Không hiểu ông Bá điên rồ ấy nghĩ thế nào mà lại lên đánh nàng một trận nữa. Trận này đau hơn tất cả vì nàng không còn một chút hơi sức nào để chống cự với cái đau nữa. Nàng cứ nằm bệt cho cha muốn đánh thế nào thì đánh. Bỗng nàng thấy đau chói ở mắt bên trái. Nàng rú lên một tiếng rồi ngất lịm đi. Thì ra ông Bá đã phang mẩu củi vào giữa mắt nàng” [120, tr. 384].

Bà Phán trong Một kiếp đọa đày không dùng vũ lực như ông Bá, nhưng đối với đứa con tàn tật lẽ ra phải được bà yêu thương và bù đắp, thì bà lại hắt hủi coi đứa con gái đó như cái gai làm xấu mặt bà. Bà đã không công bằng trong việc dạy bảo các con. Là người mẹ, lẽ ra bà phải là người phân xử đúng sai khi các con có mâu thuẫn, phải uốn nắn, khuyên răn các con, phải bảo ban, động viên đứa tật nguyền. Nhưng bà Phán lại khó chịu với Liễu mà chỉ bênh vực Nguyệt, khiến Liễu đau đớn, tủi cực vì bị chính mẹ và em xa lánh. Bà Phán không bao giờ dành cho Liễu nụ cười “kể từ ngày con biết nghĩ đến giờ, con chưa bao giờ thấy mẹ cười âu yếm với con một lần nào”, có chăng là những lời chửi rủa hơn cả với “người dưng nước lã” như “Cha tiên nhân nhà nó! …Tao vẫn biết cái tâm địa mày ác lắm cơ mà!... À! Lại còn gái đĩ già mồm à… À! Cha tiên nhân mày, hôm nay mày lục tội bà có phải không…” [120, tr. 524-530]. Bà Phán đã đối xử với đứa con mà bà dứt ruột mang nặng đẻ đau như vậy. Bà không dùng đến đòn roi nhưng những lời bà dành cho đứa con gái tội nghiệp sao cay nghiệt đến thế, mỗi câu bà chửi con kèm


với thái độ ghét bỏ như hàng nghìn mũi dao đâm vào tim Liễu. Sự đau đớn đã khiến kẻ tàn tật đó trở thành tội đồ với hai tội danh trong cái gia đình ấy. Tội thứ nhất do cô bị sinh ra ở trên còi đời này khiến người thân của cô phải xấu hổ. Tội thứ hai cô chính là kẻ ác thú hủy hoại nhan sắc của em gái và cuộc sống tưởng chừng như yên bình của cả gia đình. Nhà văn đã rất khách quan khi sử dụng cảm hứng phê phán để đẩy kịch tính của tình huống truyện lên đến đỉnh điểm đó là sự trả thù của Liễu.‌

Như vậy, Trương Tửu đã không dừng lại ở việc miêu tả chân thực khách quan về con người và xã hội, bằng cảm hứng phê phán ngòi bút của ông đã lên án mạnh mẽ vào những chủ trương chính sách của bọn thực dân và những tàn dư phong kiến còn sót lại khiến cuộc sống của mỗi con người trong xã hội ấy bị đè nén và bế tắc.

3.3.2. Cảm hứng bi kịch

Nguồn cảm hứng bi kịch là niềm cảm thương day dứt, ám ảnh trong một số tác phẩm văn xuôi Trương Tửu. Tiếng Pháp bi kịch là tragédie. Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính, mối xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái ác... diễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng [44, tr. 18]. Theo Arixtốt bi kịch là “sự bắt chước hành động hệ trọng và trọn vẹn” nhằm “dùng hành động chứ không phải bằng kể chuyện, bằng cách gây nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực hiện sự thanh lọc những nỗi xúc động tương tự” [dẫn theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học]. “Như vậy, bi kịch sẽ không còn là bi kịch nữa nếu người xem không bị rung động bởi nhân vật và nếu toàn bộ nỗi xúc động và khiếp sợkhông dẫn đến đượcmột giải quyết nào đó về tình cảm theo hướng tích cực. Nhân loại tìm thấy ở các tác phẩm bi kịch những gì khủng khiếp mà cái ác có thể gieo rắc, áp đặt cho mình, do đó không thể bang quan và chịu khuất phụctrước sức mạnh tàn bạo của nó được” [44, tr. 18- 19]. Nhà văn đề cập tới sự ích kỷ của cái tôi, đó cũng là một trong những căn nguyên của bi kịch. Cảm hứng bi kịch được thể hiện ở nhiều cấp độ với nhiều nhân vật. Trong Cái tôi của ai, sự đau buồn trăn trở về lương tâm đạo đức của con người được tác giả miêu tả khá chi tiết, đồng thời nhà văn để nhân vật cố dứt cái tôi ích kỷ của mình nhưng là chuyện không dễ dàng. Sống trong sự bon chen của cuộc đời, vì

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022