Cơ Chế Tác Động Và Hiệu Quả Tiếp Nhận Các Chương Trình Truyền Hình


tảng và các loại hình truyền thông khác để phát triển trí thông minh và tích lũy hệ thống tri thức đa dạng. Trên thực tế, có không ít “thần đồng” truyền thông đã xuất hiện mà không hề học tập, đào tạo qua trường lớp bài bản nào. Bởi lẽ, các “thần đồng” ấy đều tự bắt chước, tự học qua các chương trình truyền thông, truyền hình đa nền tảng, phát thanh, internet, mạng xã hội, băng đĩa hình, âm thanh. Nhiều chương trình truyền hình đã khéo léo bồi đắp tư tưởng đạo đức và lối sống tốt đẹp cho con người, chứ không chỉ đưa thông tin thuần túy. Gần đây, để lấp đi những khoảng trống còn bỏ ngỏ về tri thức đời sống xã hội cho công chúng, ngành truyền hình đã liên tục sáng tạo những fomat chương trình mới để hướng dẫn, quảng bá, tuyên truyền, giáo dục con người hướng tới các chuẩn mực văn hóa, vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ của thời đại, thiết thực đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trên phạm vi cả nước, trong đó có văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.

2.5. Cơ chế tác động và hiệu quả tiếp nhận các chương trình truyền hình

2.5.1. Cơ chế tác động của truyền hình

Truyền hình (báo hình) ra đời cùng với sự phát minh ra máy thu hình, đồng hành cùng báo giấy, báo nói, báo điện tử trong sự phát triển. Trong công trình Báo chí truyền thông hiện đại [77, tr.91], Nguyễn Văn Dững đã trình bày cơ chế tác động của báo chí đến con người và xã hội như sau:

Thực

tiễn (sự kiện và vấn đề thời

sự)

Chủ đề (nhà báo)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Thông

điệp

Văn hóa gia đình tại các khu đô thị mới ở Hà Nội với việc tiếp nhận truyền hình đa nền tảng ở Việt Nam - 11

(tác phẩm và ấn phẩm báo chí)

Kênh truyền thông (báo in,PT, TH, báo mạng…)

Ý thức quần chúng

Nhận thức chính trị

Thái độ hành vi

Hiểu biết tri thức tổng hợp

Hiệu lực

Hiệu quả tác động

Mối quan hệ giữa hiệu lực và hiệu quả



Truyền hình có cơ chế sáng tạo và tác động của truyền thông đại chúng trong sơ đồ sau: Đời sống thực tiễn thời sự -> Nhà báo (người làm truyền hình) ->Tác phẩm báo chí truyền hình -> công chúng. Có thể giải thích sơ đồ trên như sau:

- Đời sống thực tiễn có tính thời sự (bao gồm tự nhiên, xã hội và con người) vô cùng sôi động, muôn màu muôn vẻ diễn ra hàng ngày sẽ được phóng viên truyền hình tiếp cận, nhận thức xây dựng kịch bản, ghi hình, dựng hình làm thành tác phẩm báo hình và truyền dẫn phát sóng rộng rãi. Công chúng sẽ tiếp nhận và phản hồi bằng tư tưởng, tình cảm và thái độ của mình trước tác phẩm báo chí truyền hình đó.

- Tác phẩm truyền hình là hình ảnh chủ quan (của nhà báo) về thế giới khách quan xung quanh. Vấn đề là làm sao nhà báo phải khách quan hóa mọi tin tức một cách trung thực, đúng đắn, gạt bỏ định kiến chủ quan của người làm báo để có sự tin cậy của thông tin đối với công chúng. Thông qua lăng kính của người làm truyền hình, tác phẩm truyền hình với trình tự hình tuyến của hình ảnh, tiếng động, âm nhạc, chữ viết và lời nói sẽ được truyền dẫn phát sóng đến thẳng với trực cảm của công chúng (chủ yếu là thị giác, thính giác). Hầu hết các lý thuyết nghiên cứu về tác động của truyền thông đối với con người và xã hội đều cho rằng có mối liên hệ giữa nhu cầu thông tin và cách sử dụng truyền thông của các cá nhân trong xã hội với các hệ thống truyền thông cung ứng thông tin hàng ngày.

Trước năm 1995, nhiều lý thuyết nghiên cứu về tác động của truyền thông đều mặc định rằng con người luôn thụ động trước truyền thông. Tuy nhiên từ sau năm 2000 trở lại đây, người ta quan tâm nhiều hơn đến sự tiếp nhận thông tin của công chúng và sản xuất các chương trình truyền thông hướng tới nhu cầu của con người và xã hội. Truyền thông tương tác dần dần xuất hiện trên các phương tiện phát thanh, truyền hình, đặc biệt là mạng internet.

Hiện nay, trên nền tảng internet và nền tảng số hóa, hệ thống truyền hình và các mạng xã hội đã cơ bản chiếm lĩnh hết những “miền thông tin” của nhân loại để trao đổi hai chiều với mục đích cung ứng thông tin, tạo ra sự đa dạng của truyền thông, truyền hình thế kỷ XXI, tác động mạnh mẽ đến con người và xã hội, thúc đẩy


sự phát triển, trong đó có sự đổi thay rất nhanh về văn hóa, con người. Khi một chương trình truyền hình xuất hiện, nó lập tức tác động đến hàng trăm triệu người và có thể tạo ngay ra một làn sóng nào đó.

VHGĐ ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI đang chịu sự tác động nhiều mặt của truyền thông, trong đó có sự tác động nhanh và mạnh của truyền hình. Hầu hết các GĐ đều xem truyền hình với nhiều mong muốn đa dạng, phong phú. Bên cạnh sự giáo dục của nhà trường và ông ba cha mẹ, trẻ em thế kỷ XXI đang lớn lên từ các chương trình truyền hình hướng tới VHGĐ. Tất nhiên còn phải kể đến một đối thủ “đáng gờm” của truyền hình: đó là mạng xã hội (MXH) đang bùng nổ dữ dội và tạp nham. MXH có tác động nhiều chiều đến VHGĐ (cả tích cực và tiêu cực). Nhưng về cơ bản, tác động của truyền hình đa nền tảng VTV đến VHGĐ là tích cực. thúc đẩy những chuẩn mực văn hóa xã hội được hình thành và vận thông.

Khi tiếp cận cơ chế tác động của truyền hình đến văn hóa, con người, cần nhìn tổng thể từ cơ chế tác động của truyền thông đại chúng đến cuộc sống như đã trình bày ở trên. Về cơ bản, cơ chế tác động của truyền hình có những nét tương đồng với cơ chế tác động của truyền thông đại chúng đến con người và cuộc sống. Theo nhóm tác giả Dương Xuân Sơn - Đinh Văn Hường - Trần Quang trong sách Cơ sở lý luận báo chí truyền thông thì những căn cứ để đánh giá tác động của báo chí đến với công chúng được biểu hiện ở nhiều mức độ, tính chất khác nhau, chủ yếu trên ba phương diện: “Dựa vào chức năng nhiệm vụ của báo chí; Dựa vào tác dụng và kết quả của hoạt động; Dựa vào mục đích đạt được của hoạt động” [27, tr.174].

Đây là những căn cứ có tính chất cơ sở khoa học để xây dựng thang đo về tác động của báo chí đối với con người và cuộc sống xã hội. Trước hết, về hoạt động thì hiệu quả tác động của báo chí biểu hiện trên hai phương diện:

- Thứ nhất là về mặt tinh thần: Báo chí đã truyền tải thông tin tri thức, kiến thức, niềm tin, trạng thái tâm lý góp phần thay đổi nhận thức, cách ứng xử cho con người và cộng đồng. Những thay đổi này có được là do ảnh hưởng của thông tin nhận được.

- Thứ hai là về mặt thực tiễn: báo chí làm thay đổi tính cách, quan niệm, lối sống, nhân sinh quan, thế giới quan, phong tục tập quán của công chúng.


Tuy nhiên, để có được sự thay đổi này cần có một quá trình tác động đều đặn và bền bỉ hàng ngày của báo chí. Thực tế cho thấy, với nhiều hình thức, thể tài khác nhau, báo chí sẽ tác động đến văn hóa, con người một cách trực tiếp (bài báo đến thẳng với công chúng) và gián tiếp (dựa vào dư luận xã hội đã được tạo ra bởi báo chí sẽ tác động và làm thay đổi văn hóa, con người). Những yếu tố chi phối mạnh mẽ hiệu quả tác động của báo chí có thể kể đến như sau:

- Một là đường lối, chính sách khoa học, đúng đắn của Đảng và Nhà nước là yếu tố tiên quyết quan trọng hàng đầu sẽ tạo nên định hướng chiến lược xây dựng và phát triển thông tin cho báo chí trên phạm vi cả nước.

- Hai là phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp của nhà báo: Đây là yếu tố nguồn lực con người (đội ngũ những người làm báo gồm: Phóng viên, biên tập viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí, nhân viên kỹ thuật… được đào tạo bài bản, có trình độ lý luận, nghiệp vụ chuyên môn chuyên nghiệp, có sự say mê nghề nghiệp và luôn trung thành với Đảng và dân tộc).

- Ba là, trình độ và khả năng tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng. Đây là đối tượng phục vụ của báo chí đủ các tầng lớp, trình độ, ngành nghề, lứa tuổi… trên các địa phương, vùng miền của đất nước.

- Bốn là, phương tiện kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao của báo chí sẽ góp phần quan trọng quyết định chất lượng tác phẩm báo chí (như máy móc, thiết bị, máy tính điện tử, máy ghi âm, camera, flycam, đèn chiếu sáng, đường truyền internet, kỹ thuật truyền dẫn phát sóng…). Các phương tiện kỹ thuật công nghệ hiện đại như “cánh tay nối dài” cho nhà báo tác nghiệp sáng tạo tác phẩm báo chí.

Tổng hợp lại, có thể biểu diễn cơ chế tác động của truyền thông đại chúng được mô hình hóa trong sơ đồ sau đây: Chủ thể (nhà báo) --- > Tác phẩm báo chí (thông điệp) ---> Công chúng mọi lứa tuổi (ý thức xã hội) --- > Hành động của con người (Hành vi xã hội) --- > Hiệu quả xã hội (thay đổi thực tiễn cuộc sống xã hội và con người).

Chủ thể nhà báo sáng tạo ra tác phẩm báo chí chứa đựng thông tin quý giá về cuộc sống, theo đó thông qua hệ thống phương tiện truyền thông (phát thanh, truyền


hình, internet…) truyền tải đến cho công chúng trong toàn xã hội, từ đó, công chúng hành động và tạo ra hiệu ứng xã hội. Khi tác phẩm được phát trên sóng truyền hình (báo hình) mà chứa đựng thông tin (thông điệp) thì đã mặc nhiên thể hiện khuynh hướng tư tưởng, quan điểm chính trị xã hội của chủ thể nhà báo.

Tính khuynh hướng tư tưởng, quan điểm chính trị xã hội của chủ thể nhà báo được thể hiện trong cách lựa chọn đề tài, chủ đề, nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của tác phẩm báo chí truyền hình. Tuy nhiên, chủ thể nhà báo - những người làm truyền hình cũng có điều kiện bày tỏ chính kiến, quan điểm một cách trực tiếp trước các sự kiện thông tin có tính thời sự cao.

2.5.2. Hiệu quả tiếp nhận truyền hình

2.5.2.1. Công chúng tiếp nhận truyền hình

Trên thực tế, chất lượng tiếp nhận thông tin từ truyền hình có liên quan đến những yếu tố sau đây từ phía công chúng:

- Thứ nhất là trình độ hiểu biết, tri thức, vốn sống, đặc điểm lứa tuổi, nghề nghiệp, dân tộc, quan điểm chính trị xã hội, các mặc cảm tín ngưỡng tôn giáo của công chúng được coi là yếu tố tiền đề cho hoạt động nhận thức về tác phẩm báo chí.

- Thứ hai là sự quan tâm, chú ý của công chúng tập trung vào nguồn tin nào đó từ tác phẩm báo chí.

- Thứ ba là thái độ và sự đánh giá của công chúng đối với nguồn thông tin thể hiện trong tác phẩm báo chí truyền hình. Đây là yếu tố nền tảng quan trọng dẫn đến việc công chúng có tiếp nhận thông tin hay không.

- Thứ tư là sự thử nghiệm của đối tượng tiếp nhận thông tin sẽ có thật trên thực tế hay chỉ là trong trí tưởng tượng.

- Thứ năm là công chúng tỏ thái độ thừa nhận và chấp nhận thông tin như thế nào; Công chúng sẽ vận dụng điều chỉnh hành vi xã hội của họ ra sao? Phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nào?

Mức độ tiếp nhận thông tin, thông điệp báo chí của công chúng là rất khác nhau, tùy theo tiền đề nhận thức của họ. Nhóm công chúng có tiền đề nhận thức cao và nhóm công chúng có khả năng nhận thức yếu có thể tiếp nhận thông tin lâu hơn


mức bình thường (bởi lẽ: do nhận thức cao thì sẽ thẩm định, dò xét, luôn thận trọng và chọn lọc hơi kỹ về thông tin trước khi tiếp nhận; Còn do nhận thức hạn chế và thiếu hiểu biết thì không đủ tự tin để lựa chọn được thông tin ngay). Tuy nhiên có một điều kỳ lạ là nhóm công chúng có tiền đề nhận thức trung bình, phổ thông thì lại dễ dàng, nhanh chóng hơn khi tiếp nhận truyền thông đại chúng.

Hiện nay, truyền hình với những làn sóng truyền tin đa dạng, dồn dập hàng ngày liên tục tác động đến cuộc sống và con người và sẽ đạt đến những hiệu quả xã hội nhất định. Thông thường, hiệu quả tác động xã hội của truyền hình được thể hiện ở ba cấp độ như sau:

- Cấp độ thứ nhất là về hiệu quả tiếp nhận từ phía công chúng đối với truyền hình. Đây là cấp độ thấp nhất khi đánh giá tác động của truyền hình đối với xã hội. Thông qua những chỉ báo về số lượng, cách thức tiếp cận và chấp nhận nguồn thông tin của công chúng từ các phương tiện truyền hình. Chẳng hạn, người ta có thể thống kê về số lượng người người truy cập vào chương trình VTV Go nào đó, thành phần người đọc, người truy cập ra sao, có thường xuyên hay không… từ đó có thể đánh giá hiệu quả tiếp nhận của tờ báo, của chương trình truyền hình nào đó. Chẳng hạn như đầu thế kỷ XXI, truyền thông Hàn Quốc đã tạo ra làn sóng Hallyu của nước này đã lan rộng ở cộng đồng người Mỹ gốc Hàn tại Mỹ, đặc biệt là cư dân Los Angeles và New York và theo đó lan ra khắp nơi trên thế giới. Năm 2013, bài hát “Gangnam Style” của Hàng Quốc đã gây sốt toàn cầu và trở thành video đầu tiên trên Youtube đạt trên một tỷ lượt xem [169].

- Cấp độ thứ hai hiệu ứng xã hội từ truyền hình, truyền hình đa nền tảng tạo nên trào lưu dư luận rộng rãi của công chúng, trong đó có các chủ thể VHGĐ. Hiệu ứng xã hội là những biểu hiện của xã hội được hình thành do sự tác động của thông tin từ truyền hình. Trên thực tế, đã từng có chương trình truyền hình sau khi xuất hiện đã tạo nên một trào lưu xã hội của công chúng trong những phạm vi nhất định. Thậm chí, có thể tạo nên một số hành vi, thói quen, cách ứng xử của con người là kết quả của truyền thông hiện đại. Ví dụ như: phong trào nhảy hiphop thông qua truyền hình đã được phổ biến trong thanh niên khắp thế giới; Phong cách chụp ảnh


Hàn Quốc trở thành một trào lưu phổ biến trong giới trẻ nước ta đầu thế kỷ XXI. Hiệu ứng xã hội của truyền hình còn được biểu hiện tập trung và tiêu biểu ở sự hình thành dư luận xã hội về các vấn đề thời sự bức xúc, bởi đây là một trong những biểu hiện rất cụ thể về tác động mạnh mẽ của truyền thông đối với cuộc sống và con người. Một phóng sự truyền hình chạm đến vấn đề thời sự nóng bỏng sẽ có thể làm bùng nổ một làn sóng quan điểm trong nhân dân. Dư luận xã hội chính là hiệu quả nhanh chóng do truyền thông đại chúng tạo nên, thể hiện “nhịp đập” của cuộc sống hàng ngày. Nếu dư luận xã hội tích cực thì sẽ làm cho xã hội ổn định và phát triển.

Chính vì vậy, người ta thường quan tâm tới truyền thông và truyền hình với tác động hình thành dư luận tốt để có tác dụng dẫn dắt, điều chỉnh hành vi của con người, định hướng vận động cho các tiến trình xã hội. Chẳng hạn, trong thời gian qua, một loạt phóng sự truyền hình phê phán việc “hôi bia” của đám đông trước việc một xe tải chở bia đánh đổ hàng ra trên đường, thì sau đó một thì gan ngắn, cũng gặp chuyện tương tự, thì công chúng lại gom nhặt giúp bia cho tài xế và mua lại số bia đó, giúp đỡ tài xế giảm thiểu thiệt hại về kinh tế.

Trên thực tế, các quy mô, tính chất của hiệu ứng xã hội bị quy định bởi quy mô, tính chất các thông điệp mà truyền hình đem đến cho xã hội. Các điều kiện tiếp nhận thông tin của các nhóm xã hội như kinh nghiệm sống, trình độ nhận thức, các trạng thái tâm lý, cảm xúc… cũng chi phối hiệu ứng xã hội của tác phẩm truyền hình. Tác phẩm truyền hình sẽ gây nên những hiệu ứng xã hội không đồng đều cho các vùng miền và các nhóm xã hội, thậm chí là các hiệu ứng xã hội ngoài mục đích của các những người làm truyền hình.

- Cấp độ thứ ba hiệu quả thực tế từ báo chí truyền hình làm ra sự thay đổi nào đó trong công chúng. Đây là mức độ cao nhất của hiệu quả xã hội do tác phẩm báo chí truyền hình trong tư cách là loại hình truyền thông đại chúng đem đến:

“Hiệu quả thực tế của truyền thông đại chúng là những thay đổi, vận động thực tế của đời sống xã hội dưới tác động của truyền thông đại chúng. Hiệu quả thực tế là mục đích hướng tới cao nhất của hoạt động truyền thông đại chúng. Đó chính là những vận động tạo nên biến đổi về số lượng, chất


lượng của các tiến trình, các lĩnh vực trong đời sống xã hội [118, tr.31].

2.5.2.2. Thang đo về sự tiếp nhận truyền hình của công chúng

Trên thực tế, việc đo đếm về hiệu quả của truyền thông đại chúng không hề đơn giản. Bởi lẽ, hiệu quả của truyền thông đại chúng (nói chung) và truyền hình (nói riêng) được cho là gián tiếp theo quy trình: truyền thông, truyền hình sẽ tác động lên nhận thức của công chúng. Từ đó, công chúng sẽ có hành vi xã hội trong các tiến trình phát triển của cộng đồng.

Nhìn chung, giới nghiên cứu đều thống nhất rằng truyền thông, truyền hình tác động đến con người và xã hội bằng các chức năng chủ yếu sau đây:

+ Chức năng tư tưởng

Truyền thông đại chúng (đặc biệt là truyền hình) có sức mạnh to lớn trong quá trình giải quyết các vấn đề về tư tưởng của con người và xã hội. Thông qua việc truyền tin nhanh nhất, đầy đủ nhất, tin cậy, kịp thời đến cho nhiều người nhất về các sự kiện cuộc sống diễn ra hàng ngày, truyền thông đại chúng sẽ hướng dẫn và hình thành dư luận xã hội đúng đắn trong nhân dân, hình thành những khuynh hướng tư tưởng tích cực, có tác dụng giáo dục tư tưởng chính trị đúng đắn cho con người và cộng đồng xã hội trong nước và quốc tế.

Trên thực tế, với quyền năng của báo hình kết hợp với báo nói và ngôn ngữ nghệ thuật của điện ảnh, truyền hình lại có ưu thế lớn lao trong việc tác động đến con người và cuộc sống. Dường như các chương trình truyền hình đặc sắc sẽ có tác động mạnh mẽ, làm đổi thay nhận thức và hành vi của các nhóm xã hội có liên quan nào đó và có thể sẽ tạo ra một trào lưu tư tưởng trong xã hội.

+ Chức năng giám sát và quản lý xã hội

Đây là chức năng đặc biệt của truyền thông đại chúng. Với khả năng bao quát, nhanh nhẹn kịp thời, truyền thông (mà chủ yếu là truyền hình) đã thực hiện chức năng giám sát và quản lý xã hội, giám sát sự vận hành của các tiến trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phát hiện kịp thời và cảnh báo con người và cộng đồng về những nguy cơ, những khó khăn phức tạp đang tác động xấu đến quá trình phát triển của đất nước. Truyền thông, truyền hình tham gia tuyên truyền, vận động và tổ chức triển

Xem tất cả 225 trang.

Ngày đăng: 22/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí