Giải Pháp Vận Dụng Và Mở Rộng Phương Thức Tài Trợ Dự Án Tại Các Tổ Chức Tín Dụng Ở Việt Nam‌


nhập như hiện nay, hoàn thiện nội dung và quy trình thẩm định hiệu quả tài chính DAĐT một cách đầy đủ và chặt chẽ. Trong trường hợp đội ngũ nhân sự không đủ khả năng thẩm định tính khả thi về khía cạnh kỹ thuật của dự án (đặc biệt là những dự án sử dụng kỹ thuật phức tạp hoặc công nghệ mới), các TCTD cần có quy định rõ ràng về việc cho phép sử dụng các dịch vụ tư vấn kỹ thuật trong và ngoài nước.

3.2.3. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước‌

Để khuyến khích các TCTD vận dụng và mở rộng phương thức TTDA ở Việt Nam, trước hết về phía NHNNVN, cần có quy định rõ ràng về phương thức TTDA trong “Quy chế cho vay của các TCTD đối với khách hàng” và “Quy chế cấp tín dụng hợp vốn của TCTD đối với khách hàng”, để tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho các TCTD thực hiện. Mặt khác, chính phủ cũng cần sớm trình Quốc hội dự thảo luật sửa đổi một số điều của Luật doanh nghiệp (2005) theo hướng cho phép các nhà đầu tư được thành lập các công ty vay tín thác để khuyến khích sự phát triển của TTDA. Cùng với kiến nghị sửa đổi luật doanh nghiệp, chính phủ cũng cần sớm kiến nghị Quốc hội sửa đổi Luật đấu thầu để nhằm hạn chế tình trạng các nhà thầu kém năng lực bỏ thầu thấp không đảm bảo chất lượng công trình xây dựng và thiết bị cung cấp, gây rủi ro cho các TCTD và các nhà đầu tư. Cuối cùng là chính phủ sớm trình Quốc Hội ban hành luật tư vấn để buộc các nhà tư vấn hoạt động phải có trách nhiệm để đảm bảo chất lượng hoạt động tư vấn nói chung và tư vấn trong hoạt động TTDA nói riêng, vì hoạt động TTDA muốn thành công thì không thể không cần đến sự tham gia của các nhà tư vấn về luật, kế toán, tài chính và kỹ thuật.

3.3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG VÀ MỞ RỘNG PHƯƠNG THỨC TÀI TRỢ DỰ ÁN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM‌

Để vận dụng và mở rộng được phương thức TTDA nhằm tận dụng những lợi ích và tiềm năng mà phương thức tài trợ này mang lại cho các bên tham gia cũng như là cho nền kinh tế Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:


3.3.1. Nhóm giải pháp đối với người vay‌

3.3.1.1. Nghiên cứu soạn thảo dự án khả thi và thẩm định tính khả thi của dự án một cách nghiêm túc‌

Hiện nay, để nghiên cứu soạn thảo và thẩm định DAĐT, chủ đầu tư có thể sử dụng các phòng ban/bộ phận nghiệp vụ chuyên môn của mình nếu họ có đủ điều kiện, hoặc thuê các cơ quan tư vấn trong trường hợp chủ đầu tư không đủ khả năng nghiên cứu và lập DAĐT. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu dự án cũng phải được chủ đầu tư thẩm định lại với tư cách là người phản biện để phát hiện ra những sai sót, những bất cập hoặc tính không hợp lý hay không khả thi của các báo cáo nghiên cứu khả thi. Những DAĐT hay Báo cáo nghiên cứu khả thi như vậy khi gởi đến các TCTD mới thuyết phục được các TCTD chấp nhận tài trợ theo phương thức TTDA. Giải pháp để bảo đảm các DAĐT được nghiên cứu và thẩm định một cách nghiêm túc, trong trường hợp chủ đầu tư không đủ điều kiện nghiên cứu soạn thảo và thẩm định là chủ đầu tư nên thuê các công ty tư vấn lập và thẩm định dự án chuyên nghiệp. Thậm chí khi cần thiết các chủ đầu tư có thể thuê các công ty tư vấn thẩm định dự án chuyên nghiệp khác thẩm định lại những kết quả nghiên cứu của công ty tư vấn độc lập đã được thuê để lập DAĐT cho chủ đầu tư. Giải pháp này mặc dù phải tốn thêm chi phí nhưng là cần thiết và hợp lý để giúp cho chủ đầu tư loại bỏ được những DAĐT kém khả thi và nhờ đó mà tránh được những thiệt hại về sau. Mặt khác, nó cũng giúp làm sáng tỏ hơn về tính khả thi của DAĐT để thuyết phục được các TCTD mạnh dạn tài trợ cho dự án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 301 trang tài liệu này.

Hiện nay, việc lập và thẩm định các DAĐT sử dụng vốn nhà nước được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật về đầu tư và xây dựng do chính phủ ban hành. Cụ thể tại khoản 11 Điều 1 Nghị định 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của chính phủ thì: “Chủ đầu tư phải thuê tổ chức tư vấn có tư cách pháp nhân, đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu của dự án để lập báo cáo


Vận dụng và mở rộng phương thức tài trợ dự án, góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam - 21

nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo đầu tư và chịu trách nhiệm về các nội dung yêu cầu trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, khả thi hoặc báo cáo đầu tư”.

Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý DAĐT xây dựng công trình quy định thẩm quyền thẩm định DAĐT xây dựng công trình như sau: “Người quyết định đầu tư có trách nhiệm tổ chức thẩm định dự án trước khi phê duyệt. Đầu mối thẩm định dự án là đơn vị chuyên môn trực thuộc cấp quyết định đầu tư. Đơn vị đầu mối thẩm định dự án có trách nhiệm gửi hồ sơ dự án để lấy ý kiến của cơ quan quản lý ngành; cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng và các cơ quan khác liên quan đến dự án để thẩm định dự án. Người quyết định đầu tư có thể thuê tư vấn để thẩm tra một phần hoặc toàn bộ nội dung quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 11 Nghị định này”.

Mặt khác tại khoản 2 điều 36 Nghị định 12/2009/NĐ-CP nói trên của chính phủ quy định các tổ chức, cá nhân tham gia lập và thẩm định DAĐT xây dựng công trình phải có đủ điều kiện năng lực và được phân thành hai hạng:

- Hạng 1: được lập dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C cùng loại;

- Hạng 2: được lập dự án nhóm B, C cùng loại;

- Đối với tổ chức chưa đủ điều kiện để xếp hạng chỉ được lập Báo cáo kinh tế - kỹ thuật của công trình cùng loại.

3.3.1.2. Thuê các nhà tư vấn quản lý và vận hành dự án chuyên nghiệp‌

Hiện nay, để lựa chọn hình thức quản lý dự án đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước, chủ đầu tư phải thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 61 Nghị định 12/2009/NĐ-CP như sau:

- Trường hợp chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án thì chủ đầu tư thành lập Ban Quản lý dự án để giúp chủ đầu tư làm đầu mối quản lý dự án. Ban


Quản lý dự án phải có năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý dự án theo yêu cầu của chủ đầu tư. Ban Quản lý dự án có thể thuê tư vấn quản lý, giám sát một số phần việc mà Ban Quản lý dự án không có đủ điều kiện, năng lực để thực hiện nhưng phải được sự đồng ý của chủ đầu tư;

- Trường hợp chủ đầu tư thuê tổ chức tư vấn quản lý điều hành dự án thì tổ chức tư vấn đó phải có đủ điều kiện năng lực tổ chức quản lý phù hợp với quy mô, tính chất của dự án. Trách nhiệm, quyền hạn của tư vấn quản lý dự án được thực hiện theo hợp đồng thoả thuận giữa hai bên. Tư vấn quản lý dự án được thuê tổ chức, cá nhân tư vấn tham gia quản lý nhưng phải được chủ đầu tư chấp thuận và phù hợp với hợp đồng đã ký với chủ đầu tư;

- Khi áp dụng hình thức thuê tư vấn quản lý dự án, chủ đầu tư vẫn phải sử dụng các đơn vị chuyên môn thuộc bộ máy của mình hoặc chỉ định đầu mối để kiểm tra, theo dõi việc thực hiện hợp đồng của tư vấn quản lý dự án.

Mặt khác, tại điều 61 Nghị định 52/1999/NĐ-CP của Chính phủ và các khoản 20, 21, 22 điều 1 Nghị định 07/2003/NĐ-CP quy định trường hợp chủ đầu tư không có đủ điều kiện trực tiếp quản lý thực hiện dự án thì chủ đầu tư có thể thực hiện hình thức chủ nhiệm điều hành dự án bằng cách thuê một tổ chức tư vấn có tư cách pháp nhân và có đăng ký về tư vấn đầu tư và xây dựng chịu trách nhiệm thay mặt chủ đầu tư giám sát, quản lý toàn bộ quá trình thực hiện dự án. Ngoài ra chủ đầu tư cũng có thể thực hiện quản lý dự án theo hình thức chìa khoá trao tay bằng cách lựa chọn nhà thầu và giao cho nhà thầu thực hiện tổng thầu từ khảo sát thiết kế, mua sắm vật tư, thiết bị, xây lắp cho đến khi hoàn thành bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Chủ đầu tư có trách nhiệm thuê tư vấn giám sát quá trình thực hiện dự án và thành lập Ban quản lý dự án đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.

135


Ngoài ra, để có thể tính toán được chính xác khối lượng thi công, lựa chọn đúng nhà thầu có năng lực, ngăn chặn tình trạng các nhà tư vấn khảo sát thiết kế, tư vấn giám sát thi công và các nhà thầu thông đồng với nhau trong việc thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ khối lượng theo hợp đồng thi công, chủ đầu tư cần thuê các nhà tư vấn hoạt động với tư cách độc lập. Theo kinh nghiệm thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, chủ đầu tư thường thuê các nhà tư vấn khối lượng. Tư vấn này có mặt trong suốt thời gian thực hiện dự án, bắt đầu từ khi có hồ sơ bản vẽ thiết kế, giúp chủ đầu tư tính toán khối lượng, tư vấn về giá cả thị trường, làm hồ sơ mời thầu và xét thầu, tham gia trong quá trình thanh toán và quyết toán. Tư vấn này làm việc song song và độc lập với tư vấn khảo sát thiết kế và giám sát thi công. Khi dự án chuyển sang giai đoạn vận hành, nếu không đủ khả năng và trình độ chuyên môn, chủ đầu tư có thể thuê các chuyên gia đảm nhận vai trò vận hành dự án một cách chuyên nghiệp. Tuy nhiên, giải pháp để có thể thuê được các nhà tư vấn và các chuyên gia quản lý, vận hành dự án chuyên nghiệp trong những trường hợp như vậy tốt hơn hết là chủ đầu tư nên tổ chức đầu thầu tuyển chọn.

3.3.1.3. Tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường khi thực hiện các dự án đầu tư‌

Hiện nay theo quy định tại khoản 2 điều 12 Nghị định 29/2011/NĐ- CP ngày 18/04/2011 của chính phủ về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường thì đối với các đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (BCĐGTĐMT), chủ dự án phải lập hoặc thuê các tổ chức tư vấn đủ điều kiện hành nghề lập BCĐGTĐMT cho DAĐT của mình, đồng thời phải trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả thẩm định BCĐGTĐMT. Mặt khác, cũng theo quy định tại khoản 2 điều 23 Nghị định 29/2011/NĐ-CP nói trên thì trước khi đưa dự án vào giai đoạn vận hành chính thức, chủ dự án phải chịu trách nhiệm thiết kế, xây lắp các công trình bảo vệ môi trường; vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất

136


thải của dự án; nghiệm thu các công trình bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

Thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy, có nhiều chủ đầu tư chỉ lập BCĐGTĐMT cho đủ thủ tục và trong giai đoạn vận hành chính thức, chủ đầu tư đã không tiến hành vận hành các thiết bị xử lý về mặt môi trường và đã bị cơ quan cảnh sát môi trường xử phạt vi phạm hành chính, kèm biện pháp chế tài là đình chỉ hoạt động hoặc kiến nghị cơ quan thẩm quyền rút giấy phép hoạt động nếu các doanh nghiệp cố tình vi phạm nhiều lần.

Do đó, để hạn chế thấp nhất khả năng phải gánh chịu tránh nhiệm pháp lý về mặt môi trường, các chủ đầu tư nhất thiết phải lập BCĐGTĐMT đầy đủ, đồng thời phải tiến hành đầu tư đồng bộ hệ thống thiết bị thu gom xử lý chất thải theo đúng quy trình đã được cơ quan thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình vận hành chính thức, chủ đầu tư cũng phải thường xuyên tiến hành vận hành hệ thống thiết bị đã được lắp đặt. Điều này sẽ giúp cho chủ đầu tư tránh được các thiệt hại về mặt môi trường như bị phạt vi phạm hành chính, bị tạm dừng hoạt động, bị người tiêu dùng tẩy chay sản phẩm hoặc thậm chí có thể bị phá sản do bị rút giấy phép hoạt động.

3.3.2. Giải pháp đối với các tổ chức tín dụng‌

3.3.2.1. Giải pháp về huy động vốn‌

Như chúng ta đã biết, TTDA phần lớn diễn ra ở lĩnh vực CSHT là lĩnh vực thường đòi hỏi số vốn tài trợ rất lớn. Do đó, để có thể thực hiện TTDA hoặc tham gia đồng tài trợ với các TCTD khác, đòi hỏi TCTD thực hiện tài trợ hoặc tham gia đồng tài trợ phải có các giải pháp hữu hiệu để huy động được nguồn vốn lớn mới có thể đáp ứng được đầy đủ nhu cầu vay vốn của các DNDA. Mặt khác, các TCTD không nên lạm dụng quá nhiều nguồn vốn huy động ngắn hạn để tài trợ cho các DAĐT trung dài hạn, bởi vì như vậy sẽ làm gia tăng rủi ro thanh khoản cho các TCTD. Theo quy định tại khoản 2 điều 5 thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 của NHNNVN về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn thì các

137


NHTM không được sử dụng quá 30% nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Tuy nhiên, theo Thống đốc NHNNVN Nguyễn Văn Bình thì trên thực tế các TCTD đã vượt con số này từ lâu. “Có tổ chức lên tới 60- 70%, thậm chí có tổ chức đến cả 100%. Vốn thì ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, đến khi thắt chặt lại chính sách tiền tệ để chống lạm phát như năm vừa qua, lập tức các tổ chức này khó khăn về thanh khoản” [72].

Do đó, để có được nguồn vốn ổn định thực hiện tài trợ hoặc tham gia đồng tài trợ các DAĐT lớn, đòi hỏi các TCTD phải tăng cường huy động nguồn vốn dài hạn. Một trong những công cụ mà các TCTD có thể sử dụng để huy động được nguồn vốn dài hạn trong giai đoạn hiện nay là phát hành trái phiếu cho các đối tượng là các nhà đầu tư tổ chức, bao gồm các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tiết kiệm. Đối tượng mua trái phiếu không chỉ giới hạn trong phạm vi các nhà đầu tư trong nước mà còn bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài như trường hợp của Vietinbank vừa được NHNNVN phê chuẩn chủ trương cho VietinBank phát hành 500 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế.

Bên cạnh việc huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, các TCTD cũng có thể chủ động phát hành các công cụ nợ khác như kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn và thời gian đáo hạn dài với mức lãi suất hấp dẫn mà vẫn đảm bảo được tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cho các TCTD.

Ngoài hình thức huy động vốn từ phát hành các công cụ nợ nói trên, các TCTD cũng có thể cân nhắc thêm giải pháp huy động vốn thông qua phát hành thêm vốn cổ phần. Giải pháp này một mặt giúp TCTD gia tăng được nguồn vốn trung dài hạn, mặt khác, còn giúp TCTD tăng được vốn điều lệ để tăng tiềm lực tài chính và tăng cường khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, các TCTD cần lưu ý lựa chọn được thời điểm phát hành thuận lợi và giá phát hành sao cho có lợi cho TCTD. Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần phải tiến đánh giá những lợi thế và bất lợi của từng hình thức huy động để vừa huy động được vốn mà vẫn không gây thiệt hại đến quyền lợi của các cổ đông hiện tại, vì việc

138


phát hành thêm vốn cổ phần có thể tác động làm giảm thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS), từ đó tác động đến thị giá cổ phiếu của TCTD trên thị trường. Mặt khác, việc phát hành thêm vốn cổ phần cũng có thể dẫn đến những xáo trộn trong cơ cấu sở hữu và cơ cấu quản trị điều hành của các TCTD như trường hợp của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín được cho rằng là đã bị thâu tóm bởi một nhóm các cổ đông lớn âm thầm thu gom cổ phiếu đạt tỷ lệ 51% và yêu cầu tiến hành Đại hội cổ đông bất thường để bầu lại hội đồng quản trị.

3.3.2.2. Giải pháp về tổ chức và đào tạo‌

Thứ nhất: Thành lập phòng ban hay bộ phận tài trợ dự án đồng thời thuê các chuyên gia, kỹ sư chuyên nghiệp

Tùy theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn của mình mà các TCTD có thể xem xét lựa chọn mô hình tổ chức TTDA thích hợp dưới hình thức thành lập phòng ban hay bộ phận TTDA, đồng thời thuê mướn các chuyên gia và kỹ sư chuyên nghiệp. Đối với các TCTD không chuyên về lĩnh vực cho vay trung dài hạn, bước đầu có thể sử dụng các cán bộ của phòng tín dụng hay phòng khách hàng doanh nghiệp, phòng quản lý rủi ro có nhiều kinh nghiệm và có trình độ chuyên môn tốt để làm công việc thẩm định và TTDA. Cần thiết các TCTD có thể thuê các chuyên gia và kỹ sư kỹ thuật để tư vấn và hỗ trợ cho quá trình thẩm định tính khả thi ở phương diện kỹ thuật của dự án, một khía cạnh được xem là khá quan trọng đối với nhiều khoản tài trợ cho các DAĐT có nguồn kỹ thuật hay yêu cầu về sử dụng công nghệ mới và hiện đại. Đối với các TCTD chuyên cho vay trong lĩnh vực trung dài hạn, bước đầu cần thành lập thêm một bộ phận chuyên trách về hoạt động TTDA, khi quy mô hoạt động của phương thức này phát triển đến một mức độ đủ lớn có thể tính đến việc thành lập thêm phòng TTDA để chuyên môn hoá hoạt động này. Đội ngũ nhân sự cho bộ phận này cần được lựa chọn trong số các cán bộ tín dụng và thẩm định giỏi nghiệp vụ chuyên môn và có kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực thẩm định và cho vay trung dài hạn. Mặt khác, cần tuyển dụng thêm các kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật từ nhiều lĩnh vực khác nhau để đảm trách công

Xem tất cả 301 trang.

Ngày đăng: 16/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí