- 174 -
Luật Kế toán cần được xem xét, sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện nhằm chuẩn hóa về tính minh bạch, thống nhất và hội nhập.
Việc sửa Luật Kế toán không chỉ đơn thuần nhìn vào những hạn chế mà Luật đã bộc lộ. Cần tổng kết đánh giá cụ thể về nội dung của Luật kế toán hiện hành trong mối quan hệ với những yêu cầu của thực tiễn, của quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế, từ đó ban hành một Luật Kế toán xứng tầm là văn bản pháp lý cao nhất về kế toán, tạo điều kiện, mở đường cho quá trình phát triển và hội nhập của hệ thống kế toán và hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam.
(2) Chính Phủ
Chính phủ ban hành kịp thời:
- Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Kiểm toán độc lập (ngoài các vấn đề đã được hướng dẫn tại Nghị định 17/2012/NĐ-CP);
- Bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp lý về bảo vệ môi trường, chẳng hạn, quy định về chất lượng không khí, chất lượng nước, chất thải rắn, chất thải độc hại, đa dạng sinh học…(liên quan đến trách nhiệm xã hội doanh nghiệp).
(3) Bộ Tài chính
Thứ nhất, tập trung nguồn lực hoàn thành những việc trọng tâm đến hết năm 2016:
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Ghi Nhận Và Báo Cáo Nguồn Lực Tri Thức Doanh Nghiệp Trên Bctc
- Các Thành Phần Và Thuộc Tính Chủ Yếu Của Nguồn Lực Tri Thức Trình Bày Trên Bctc Doanh Nghiệp Việt Nam
- Nội Dung Cơ Bản Của Báo Cáo Trách Nhiệm Xã Hội Doanh Nghiệp Việt Nam
- Vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế để hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp trong điều kiện ở Việt Nam - 25
- Các Yếu Tố Của Bctc (Theo Fasb)
- Các Dấu Mốc Quan Trọng Trong Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Chuẩn Mực Kế Toán Quốc Tế
Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.
(1) Triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định 2261/QĐ-BTC- Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược Kế toán – kiểm toán đến 2020, tầm nhìn 2030.
(2) Điều chỉnh, bổ sung Luật Kế toán.
(3) Điều chỉnh, bổ sung hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành.
(4) Điều chỉnh, cập nhật các chuẩn mực đã ban hành theo hướng phù hợp với IAS/IFRS. Lưu ý, cần điều chỉnh, cập nhật các chuẩn mực Việt Nam đã ban hành liên quan đến IFRS 10 – Báo cáo tài chính hợp nhất; IFRS 11 –Hoạt động liên doanh; IFRS 12 – Công khai lợi ích trong các doanh nghiệp khác.
(5) Ban hành mới 7 chuẩn mực kế toán liên quan đến thị trường vốn, thị trường chứng khoán, đo lường theo giá trị hợp lý và suy giảm giá trị tài sản và nâng cấp, thay thế Chuẩn mực chung (VAS1) thành Khuôn mẫu lý thuyết cho
- 175 -
BCTC. Các chuẩn mực này cần áp dụng gần như 100% các quy định theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
(6) Ban hành lại, thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp và hệ thống BCTC. Chế độ kế toán doanh nghiệp và hệ thống BCTC cần thể hiện đầy đủ các nội dung đã trình bày tại mục 3.2.1.1, 3.2.1.2 của luận án và rà soát để đảm bảo tính thống nhất với các quy định tại các chuẩn mực kế toán đã được ban hành.
(7) Tiến hành xây dựng hệ thống BCTC linh hoạt.
(8) Ban hành quy định ban đầu về báo cáo Nguồn lực tri thức và Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong hệ thống BCTC doanh nghiệp.
Thứ hai, Áp dụng thí điểm áp dụng các mô hình kiểm toán chất lượng từ hai phía. Thứ nhất là mô hình kiểm tra chéo của Mỹ và các nước nói tiếng Anh, theo đó, mỗi công ty kiểm toán phải đăng ký vào chương trình kiểm tra được công nhận, và tham gia kiểm tra chất lượng dịch vụ và việc tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán của các công ty khác. Thứ hai là mô hình ở Pháp và các nước Tây Âu, sử dụng khoảng 1.000 kiểm toán viên lấy từ các công ty kiểm toán độc lập, sau đó có bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra và đề nghị họ tình nguyện mỗi năm làm cho các hiệp hội ít nhất 200 giờ để soát xét lại hồ sơ chất lượng kiểm toán của các kiểm toán viên khác; mỗi kiểm toán viên độc lập trong một năm phải bị soát xét chất lượng ít nhất một hồ sơ kiểm toán theo phương pháp chọn lựa ngẫu nhiên. Rõ ràng, Việt Nam cũng cần phải từng bước áp dụng việc kiểm soát chất lượng thông qua các mô hình như vậy.
Thứ ba, Phát huy hơn nữa việc phối hợp với các trường đại học có đào tạo ngành kế toán, các chuyên gia, các hội nghề nghiệp và các doanh nghiệp để hội thảo, lấy ý kiến đóng góp nhằm ban hành các quy định vừa có tính khoa học, hiện đại, vừa phù hợp với môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Thứ tư, Tăng cường thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, đào tạo, hội thảo… nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận về việc áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán, giá trị hợp lý, việc ghi nhận và báo cáo nguồn lực tri thức, báo cáo trách nhiệm xã hội, từ cơ quan chức năng, doanh nghiệp, người làm công tác kế toán, cho đến các đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC.
- 176 -
(4) Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước
- Tham mưu tốt cho Bộ Tài chính, Chính phủ trong việc sửa đổi, xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật chứng khoán, Luật kiểm toán độc lập, sửa đổi các quy định về xử phạt, chế tài những vi phạm đủ tính răn đe, nhằm xây dựng môi trường minh bạch và lành mạnh trên TTCK.
- Tăng cường công tác giám sát, quản lý việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực chứng khoán, đặc biệt là việc phát hành chứng khoán của các công ty niêm yết.
- Xây dựng một hệ thống thang điểm để đánh giá chất lượng thông tin của các công ty niêm yết công bố trong năm, cuối năm có tổng kết đánh giá việc thực hiện trách nhiệm công bố thông tin của các công ty niêm yết và công bố trên phương tiện thông tin đại chúng để các nhà đầu tư có thể so sánh, đánh giá. Từng bước nghiên cứu xây dựng chỉ số đánh giá mức độ minh bạch thông tin tài chính.
(5) Các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp
Các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ đào tạo, tư vấn, tuyên truyền:
- Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư): tăng cường tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản trị doanh nghiệp theo Chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừacủa Chính phủ, đặc biệt là các lớp về quản trị tài chính, kế toán dành cho chủ doanh nghiệp;
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): tổ chức đào tạo bằng những hình thức thích hợp để phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nhân nâng cao kiến thức, năng lực quản lý và kinh doanh, đặc biệt trong lập, công khai và sử dụng thông tin về BCTC;
- Trung tâm Dịch vụ và Hỗ trợ Doanh nghiệp (BPSC): cung cấp các dịch vụ đào tạo thiết thực, hiệu quả; tổ chức các hội thảo, diễn đàn doanh nghiệp liên quan đến tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần từng bước hoàn chỉnh một hệ thống thị trường tích cực (active market); đồng bộ và minh bạch hóa hành lang pháp lý về kinh
- 177 -
doanh. Thị trường hàng hóa và thị trường tài chính Việt Nam phải được xây dựng ngày càng “hoạt động” để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm các dữ liệu tham chiếu trong đo lường giá trị hợp lý, và trong các ước tính khác.
3.3.2. Đối với các tổ chức nghề nghiệp và cơ sở đào tạo kế toán, kiểm toán
(1) Phát huy vai trò của Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA)
Trong những năm qua, VAA đã có những hoạt động và đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống kế toán Viêt Nam.
Trong thời gian sắp tới, Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong đào tạo và huấn luyện nghề nghiệp; đa dạng các phương thức và nội dung hoạt động… Càng hội nhập sâu trong lĩnh vực kế toán chúng ta càng nhận thấy vai trò của Hội Kế toán và kiểm toán trong việc truyền bá chuyên môn kiến thức lý luận và thực tiễn về hệ thống chuẩn mực kế toán cũng như trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Vì vậy, Hội Kế toán và kiểm toán cần có lộ trình cụ thể cho sứ mệnh quan trọng này. Chẳng hạn, trên cơ sở hỗ trợ kinh phí của Nhà nước, Hiệp hội tổ chức biên dịch các tài liệu kế toán nước ngoài của các tổ chức kế toán quốc tế có uy tín và có tầm ảnh hưởng sâu rộng như IASB, FASB, IFAC v.v… và có chính sách hợp lý để hỗ trợ khâu mua bản quyền và phân phối rộng rãi các tài liệu này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần đánh giá đúng vai trò của Hội kế toán và kiểm toán, từ đó mạnh dạn trao cho Hội các quyền và nhiệm vụ tương xứng với vai trò của Hội. Ngoài ra, cần có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ trong mối quan hệ giữa các cơ quan điều hành và các tổ chức cung ứng các dịch vụ công bố thông tin trên thị trường như: Hiệp hội kế toán, kiểm toán Việt Nam (VAA), Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), Hiệp hội chứng khoán Việt Nam, trong việc xây dựng môi trường pháp lý cũng như theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động kế toán và công bố thông tin trên TTCK.
(2) Các tổ chức nghiên cứu, đào tạo, đặc biệt là các cơ sở đào tạo đại học
Các cơ sở đào tạo đại học cần đẩy mạnh việc đổi mới chương trình,
- 178 -
phương thức đào tạo và công tác nghiên cứu khoa học về kế toán.
Việc cải tiến, bổ sung chương trình, phương thức đào tạo kế toán bậc đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, đặc biệt quan tâm cách thức đào tạo theo hướng tích cực.
Hiện nay, các chương trình đào tạo ở các trường đại học nước ngoài có bổ sung các học phần mà người học có thể tham dự để dự thi chứng chỉ CPA (Certified Public Accountant) do các hiệp hội nghề nghiệp tổ chức. Chương trình đào tạo thiết kế theo kiểu đào tạo tín chỉ, đào tạo theo hướng mở là xu hướng tất yếu đối với chương trình đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
Các trường đại học tạo và học viện cần đẩy mạnh thực hiện có hiêu quả mô hình đào tạo tín chỉ đối với chuyên ngành đào tạo kế toán. Việc xây dựng khung chương trình cũng nên tham khảo chương trình tiên tiến của các nước để tạo thuận lợi trong việc thừa nhận bằng cấp, thi chứng chỉ kiểm toán viên, chuyển đổi môn học hay chuyển tiếp học ở bậc học cao hơn. Về lâu dài, cần đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ trong giảng dạy chuyên ngành kế toán.
Giáo trình về kế toán cũng cần thay đổi một cách căn bản, trong đó lấy chuẩn mực kế toán là nền tảng để học viên hiểu thực chất vấn đề thay vì sa đà vào nghiệp vụ chi tiết; kiến thức về tế kế toán quốc tế nói chung và chuẩn mực kế toán quốc tế cũng cần được quan tâm trong thiết kế chương trình.
Về nghiên cứu khoa học về kế toán, hiện nay các đề tài cấp trường, kể cả cấp bộ chủ yếu tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung, cập nhật hoặc xây dựng quy trình tổ chức thực hiện các chuẩn mực, chế độ kế toán. Cần tập trung, khuyến khích các công trình nghiên cứu về phát triển c ủ n g cố hoặc áp dụng một lý thuyết mới trong lĩnh vực kế toán, đặc biệt là công trình nghiên cứu có tính định lượng.
3.3.3. Đối với các doanh nghiệp
Lập và công khai BCTC là trách nhiệm của doanh nghiệp được Nhà nước quy định trong Luật kế toán, Luật chứng khoán, chuẩn mực và chế độ kế toán. Hiện nay, việc thực hiện trách nhiệm này của các doanh nghiệp còn hạn chế.
- 179 -
Do vậy, trước hết, các doanh nghiệp cần xây dựng văn hóa chính trực, trách nhiệm giải trình và minh bạch trong soạn thảo và công bố BCTC. Việc thiết lập một mô hình tổ chức kế toán phù hợp với điều kiện tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh, đồng thời thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu là vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, nhiều cá nhân và đối tác quan tâm đến thông tin tài chính và tính đáng tin cậy của thông tin tài chính của doanh nghiệp.
Trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay, một vấn đề khác mà các doanh nghiệp không thể không quan tâm là việc chọn lựa và áp dụng các giải pháp tin học hóa và phần mềm kế toán. Theo đó, đầu tư cho giai đoạn khảo sát, thiết kế thường tốn kém và mất nhiều thời gian nhưng sẽ hạn chế được những tổn thất có thể rất lớn do sự không tương thích của phần mềm về mặt công nghệ, chức năng.
Đối với các công ty niêm yết, cần rà soát và tối ưu hoá quy trình khoá sổ và lập BCTC, đảm bảo tuân thủ quy định về công bố thông tin trên TTCK. Công ty cần quan tâm đến việc thực hiện nghĩa vụ công bố đầy đủ với nhà đầu tư và cổ đông về các thông tin tài chính, trách nhiệm của ban lãnh đạo trong việc lập và công bố BCTC, các giao dịch quan trọng với các bên liên quan, chi tiết các khoản vay, các khoản nợ phải thu với danh sách khách hàng cụ thể, chi tiết các khoản trích lập dự phòng trong kỳ, các thông tin phi tài chính, như mục tiêu hoạt động của công ty, chủ sở hữu và quyền lợi của cổ đông, thay đổi quyền kiểm soát trên tài sản đầu tư và những giao dịch bất thường, thù lao cho ban giám đốc, thông tin liên quan đến môi trường, xã hội và các bên liên quan, những yếu tố rủi ro cơ bản, kiểm toán nội bộ…
Việc gia tăng tính độc lập của Ban kiểm soát, việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả cũng cần được các công ty niêm yết quan tâm đúng mức.
Các công ty niêm yết càng cần thiết phải tin học hóa công tác kế toán; phối hợp với các cơ quan chức năng như UBCKNN, cơ quan thuế… để tiếp nhận ý kiến về thực trạng công tác lập, trình bày, công bố BCTC.
- 180 -
Tóm lại, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng một hệ thống BCTC doanh nghiệp hòa hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, hữu ích với đối tượng sử dụng. Theo đó, quan điểm xuyên suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống BCTC là: hòa hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế; phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế ở Việt Nam; đề cao tính linh hoạt của hệ thống BCTC, phù hợp với quy mô, đặc thù doanh nghiệp và tính đa dạng về đối tượng sử dụng thông tin.
Nếu việc xác lập quan điểm, phương hướng được xem là then chốt, thì việc đề ra các giải pháp và một lộ trình thực hiện hợp lý được xem là trọng tâm của quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống BCTC. Theo đó, trong ngắn hạn, cần bổ sung, điều chỉnh về khung pháp lý cho BCTC, hệ thống báo cáo, nội dung một số khoản mục trên BCTC; thống nhất một chế độ kế toán, từng bước xây dựng hệ thống BCTC linh hoạt trong nền kinh tế thị trường. Trong dài hạn, thực hiện các bước đi phù hợp để cập nhật và ban hành mới các chuẩn mực phù hợp với IAS/IFRS , sử dụng giá trị hợp lý trong định giá, ghi nhận và báo các nguồn lực tri thức, báo cáo trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC, tiến tới áp dụng đầy đủ hệ thống chuẩn mực kế toán theo IAS/IFRS.
Cùng với việc từng bước hoàn chỉnh một hệ thống thị trường tích cực, minh bạch hóa hành lang pháp lý về kinh doanh, việc thực hiện các giải pháp ở trên một cách hiệu quả và đồng bộ sẽ tạo ra một hệ thống kế toán và BCTC doanh nghiệp Việt Nam cập nhật và áp dụng đầy đủ IAS/IFRS, linh hoạt, hữu ích, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán.
- 181 -
KẾT LUẬN
Báo cáo tài chính là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán. Mục đích của BCTC là cung cấp thông tin tài chính hữu ích về doanh nghiệp cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng, người cho vay và các chủ nợ khác trong việc đưa ra quyết định về việc cung cấp nguồn lực cho doanh nghiệp.
Những yêu cầu của quá trình hội nhập, ưu thế về lợi ích mang lại của việc sử dụng chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS), cùng với nỗ lực của IASB, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hòa hợp và hội nhập với IAS/IFRS của nhiều quốc gia trên thế giới.
Luận án đã phân tích, tổng hợp, đánh giá cơ sở lý luận về hệ thống BCTC theo chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế đối với hệ thống BCTC tại các quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó, trên cơ sở kết quả đối chiếu hệ thống BCTC theo quy định của Việt Nam với hệ thống BCTC theo quy định của IASB, ý kiến của các doanh nghiệp, nhà đầu tư và chuyên gia về hệ thống BCTC doanh nghiệp, cũng như yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán ở Việt Nam, luận án đã xác định rõ ràng, cụ thể những ưu điểm, hạn chế của hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện hành, nhận diện các vấn đề cần giải quyết. Theo đó, ở Việt Nam, sau hơn 35 năm kể từ khi thống nhất đất nước, hệ thống kế toán và BCTC doanh nghiệp hiện nay về cơ bản đã được xây dựng theo hướng tiếp cận với thông lệ quốc tế trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam, có sự cải cách, khá đầy đủ và có tính hệ thống. Tuy nhiên, cơ sở định giá, đặc điểm chất lượng và nguyên tắc lập BCTC chưa được quy định đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế; hệ thống BCTC mang tính khuôn mẫu, thiếu sự linh hoạt; hệ thống báo cáo, một số nội dung, khoản mục trên BCTC chưa đầy đủ, hoặc chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế; chưa đề cập hoặc quy định việc ghi nhận và trình bày nguồn lực tri thức, trách nghiệm xã hội doanh nghiệp trên báo cáo…