An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam - 2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt.

Bên cạnh những thành công đó, nước ta đang phải đối mặt với những khó khăn về lĩnh vực xã hội. Đặc biệt, là một nước nông nghiệp với gần 80% dân cư sống ở khu vực nông thôn, nhưng đến nay, nông thôn nước ta vẫn còn nghèo, nông dân vẫn còn khổ và nông nghiệp vẫn còn rất rủi ro. Tình trạng thất nghiệp, thiếu công ăn việc làm của người lao động còn khá phổ biến, khoảng cách thu nhập giữa người lao động, giữa các vùng vẫn chưa được thu hẹp, tình trạng đói nghèo và tái nghèo vẫn chưa được giải quyết một cách bền vững, phân hoá xã hội ngày càng phức tạp. An sinh xã hội đối với người nông dân, do đó, còn nhiều khó khăn.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách để giải quyết những khó khăn trên, song đây vẫn là vấn đề phức tạp, trong đó an sinh xã hội đối với nông dân là vấn đề bức xúc nhất. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ, người nông dân có thu nhập rất thấp, đời sống hiện tại rất khó khăn. Chính điều đó làm cho họ dễ bị tổn thương khi có những biến đổi trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, thiên tai bão lụt,...xảy ra. Và hậu quả là họ lại lâm vào cảnh đói nghèo.

Do đặc điểm lịch sử, các làng xã Việt Nam có truyền thống tình làng nghĩa xóm sâu bền. Chính truyền thống đó đã hình thành một cách tự nhiên các hình thức an sinh xã hội truyền thống. “Tình làng nghĩa xóm”, “ Có nhau khi tắt lửa, tối đèn”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”,... vốn là truyền thống văn hoá cũng đồng thời là những hình thức thực hiện an sinh xã hội trong nông thôn hàng ngàn đời nay ở nước ta. Song trước sự phát triển của kinh tế thị trường, một mặt, trong nông thôn đã xuất hiện một số hình thức mới về an sinh xã hội, mặt khác, những hình thức an sinh xã hội truyền thống cũng đang có sự biến đổi.


Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển các hình thức an sinh xã hội. Có quan niệm cho rằng, những hình thức an sinh xã hội truyền thống sẽ dần dần bị thay thế bằng các hình thức hiện đại. Vậy các hình thức an sinh xã hội truyền thống sẽ tồn tại và phát triển ra sao trong bối cảnh xuất hiện những hình thức an sinh xã hội hiện đại? Những hình thức hiện đại có thể thay thế các hình thức truyền thống của an sinh xã hội trong nông thôn hay không? Nếu có, thì mức độ thay thế sẽ như thế nào? Với tình trạng thu nhập thấp như hiện nay, Việt Nam có thể xây dựng được các chính sách an sinh xã hội hiện đại cho nông dân như các nước phát triển được hay không? Nếu có thì điều kiện nào để thực hiện được? Đó là những vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải có sự nghiên cứu trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội cho cho người nông dân nước ta. Xuất phát từ đó, tác giả lựa chọn vấn đề An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sỹ.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan

Do yêu cầu của nền kinh tế thị trường, vấn đề ASXH đã được nhiều nhà kinh tế học ở các nước trên thế giới nghiên cứu một cách cơ bản, trong đó đặc biệt là các các nước XHCN cũ (như Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức), Mỹ, EU (Anh, Cộng hoà liên bang Đức, Thụỵ Điển), Nhật bản và một số nước đang phát triển khác. Trong các viện nghiên cứu, các trường đại học ở các nước, vấn đề ASXH đã được xuất bản thành nhiều giáo trình, nhiều sách chuyên khảo, nhiều bài báo công bố trên các tạp chí chuyên ngành. nhiều nước trên thế giới đã xây dựng những tổ chức nhằm thực hiện chính sách ASXH, hoạt động với mô hình, chương trình và nguyên tắc khác nhau.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

nước ta, những năm đầu của quá trình đổi mới, có một số nghiên cứu liên quan đến vấn đề ASXH, trong đó trực tiếp là đề tài cấp nhà nước mang mã số KX 04.05: “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, do viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội, thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan chủ trì đề tài. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đề cập đến một cách khá hệ thống vấn đề bảo đảm xã hội như: đã làm


An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam - 2

rõ khái niệm về bảo đảm xã hội; mối quan hệ giữa bảo đảm xã hội với các chính sách xã hội, vị trí, vai trò và sự cấn thiết khách quan của bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị trường, khẳng định bảo đảm xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa là động lực cho phát triển kinh tế xã hội. Đề tài đã nghiên cứu khá công phu về các bộ phận cấu thành quan trọng của bảo đảm xã hội là Bảo hiểm xã hội, Trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội; đã đánh giá thực trạng của các bộ phận cấu thành này, chỉ ra những thành tựu, hạn chế của nó và chỉ ra quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển trong tương lai của hệ thống bảo đảm xã hội ở nước ta.

Trong những năm gần đây, nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến chính sách ASXH. Có thể nêu lên một số công trình của các tác giả như sau: Mai Ngọc Cường, Chính sách xã hội nông thôn: kinh nghiệm CHLB Đức và thực tiễn Việt Nam. NXB lý luận chính trị, Hà nội 2006; Vấn đề đổi mới bảo hiểm xã hội. Chương VIII. Sách Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam của Mai Ngọc Cường (2001); Nguyễn Hải Hữu, Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyên đề

8. Đánh giá 20 năm đổi mới Viện khoa học xã hội việt Nam (2006); Patricia Justino, Khuôn khổ xây dựng tổng thể quốc gia về an sinh xã hội ở Việt Nam (UNDP); Bùi Văn Hồng Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia BHXH đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập, cấp Bộ năm 2002; Nguyễn Văn Định Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam trong nền kinh tế thị trường đề tài cấp Bộ năm 2000; Nguyễn Tiệp, Các giải pháp nhằm thực hiện xã hội hoá công tác trợ giúp xã hội, đề tài cấp Bộ năm 2002; Đặng Cảnh Khanh. Vấn đề trợ giúp xã hội trong chính sách bảo đảm xã hội ở Việt nam đề tài KX. 04. 05 (năm 1994)

Các nghiên cứu trên tuy đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH nói chung ở nước ta những năm qua. Tuy nhiên, việc nghiên cứu hệ thống, chính sách ASXH đối với nông dân như là một hệ thống độc lập vẫn còn chưa được giải quyết

3. Mục tiêu luận án

3.1. Làm rõ những nội dung lý luận về hệ thống ASXH đối với nông dân trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.


3.2. Phân tích thực trạng hệ thống ASXH đối với nông dân nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống ASXH hội đối với nông dân nước ta hiện nay.

3.3. Đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta những năm tới.

4. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả luận án áp dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn trực tiếp để thu thập tài liệu, số liệu về thực trạng hệ thống An sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam qua các thời kỳ; sử dụng phương pháp tư duy logic, tổng hợp, quy nạp, diễn giải trong quá trình nghiên cứu về hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam.

Đồng thời kết hợp với sử dụng các tài liệu điều tra, khảo sát, thu thập số liệu thống kê và phân tích... của các đề tài, dự án, các công trình nghiên cứu đã được công bố về vấn đề có liên quan để đề xuất các giải pháp cho việc hoàn thiện và phát triển hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta trong những năm sắp tới.

Trong quá trình thực hiện, luận án sử dụng kiến thức kinh tế lượng để đánh giá hiệu quả các việc thực thi các chương trình an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam thời gian qua.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân.

Song an sinh xã hội đối với nông dân là vấn đề khá rộng, bao gồm ASXH truyền thống và ASXH hiện đại. Trong phạm vi luận án này, tác giả chủ yếu đề cập đến các nhân tố, các điều kiện xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH hiện đại đối với nông dân (gọi tắt là hệ thống ASXH đối với nông dân).

6. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của đề tài

6.1. Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường

6.2. Tổng kết kinh nghiệm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở một số nước trên thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc xây dựng hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta.


6.3. Khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hệ thống ASXH hiện hành đối với nông dân.

6.4. Sử dụng ma trận SWOT làm rõ những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trên cơ sở đó, đề xuất việc lựa chọn các phương án xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước ta những năm tới

6.5. Khuyến nghị các giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân đảm bảo cho tính khả thi của các phương án chính sách đã đề xuất.

7. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm ba chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường.

Chương II: Đánh giá thực trạng hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam.

Chương III: Phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam những năm tới.


CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NÔNG DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


1.1. AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NÔNG DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ

1.1.1. Kinh tế thị trường và những yêu cầu đặt ra cho hệ thống an sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường

Xã hội loài người đã trải qua 5 giai đoạn phát triển, từ công xã nguyên thủy (CXNT) tới chiếm hữu nô lệ (CHNL), phong kiến (PK) rồi đến chủ nghĩa tư bản (CNTB) và xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cùng với sự phát triển của xã hội, thì cũng có sự thay đổi trong quan điểm về an sinh xã hội (ASXH). Từ cuối thế kỷ XV về trước cũng như giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, vấn đề ASXH còn rất phôi thai, mang tính truyền thống theo kiểu Tình làng nghĩa xóm,… Việc bảo đảm ASXH cho các tầng lớp dân cư từ phía Nhà nước là rất hãn hữu. Tuy nhiên, từ sau thế chiến thứ nhất, vấn đề ASXH đã được các quốc gia quan tâm và phát triển, dù đó là các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa hay những nước đi theo con đường phát triển của nền kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường ngoài những ưu việt vốn có của nó như thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có điều kiện tiếp cận với những hàng hóa và dịch vụ một cách tốt nhất và được đánh giá là: “kinh tế thị trường có chỗ đứng không thể thay thế được; nó, đã, đang và sẽ có sức sống mạnh mẽ, chỉ vì một lý do thật đơn giản: nó là phương tiện tổ chức những liên hệ của đời sống kinh tế- mặt cơ bản của đời sống xã hội- một cách có hiệu quả nhất” [18. tr.]. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng còn những yếu điểm mà cho đến nay con người vẫn chưa thể tìm ra những biện pháp và chính sách hữu hiệu để giải quyết triệt để những vấn đề này như: phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, lạm phát... Những biện pháp và chính sách mà các chính phủ đạt được đến thời


điểm hiện nay chỉ là tìm cách giảm bớt những rủi ro về kinh tế và xã hội mà mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại cho người dân. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất mà chính phủ ở các nước phát triển đưa ra để đối phó với những rủi ro về kinh tế cho công dân của họ là hệ thống ASXH.



Bảo hiểm y tế

Bảo hiểm xã hội

Cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội

Kế hoạch hóa tập trung

KTTT hỗn hợp

Kinh tế hàng hóa giản đơn

KTTT

Tdo

Kinh tế tự nhiên

Kinh tế hàng hóa

Bảo hiểm xã hội (hưu trí, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tử tuất)

Cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội



Hình 1.1: Sự phát triển của xã hội và vấn đề an sinh xã hội qua các giai đoạn


Nguồn: Tác giả tự thiết kế từ các tài liệu [1], [18], [34], [79]


Nhìn chung, mỗi con người từ lúc sinh ra đến khi mất sẽ trải qua ba giai đoạn của cuộc đời. Đầu tiên là khi họ sinh ra, sau đó họ lớn lên - trưởng thành rồi già và chết. Như vậy xã hội nhìn chung sẽ có ba thế hệ:

Thế hệ thứ nhất - chủ nhân tương lai của đất nước: Trẻ em

Thế hệ thứ hai - chủ nhân thực của đất nước: Người trong độ tuổi lao động

Thế hệ thứ ba - đối tượng được hưởng thụ: Những người ngoài độ tuổi lao động (họ đã cống hiến sức lực của mình cho xã hội và giờ cần được nghỉ ngơi và được xã hội đền đáp)


Nam

Như vậy, trẻ em và người già là những người hầu như không tham gia vào các hoạt động kinh tế. Những người làm ra sản phẩm để nuôi gia đình và xã hội chủ yếu là những người trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên, trong cuộc sống rủi ro có thể xảy ra với bất kỳ người nào không phân biệt lứa tuổi, giới tính hay địa vị... Khi rủi ro xảy ra, gia đình của những nạn nhân sẽ phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế và vấn đề này lại đè nặng lên vai những người trong độ tuổi lao động. Để giảm thiểu những khó khăn và rủi ro về kinh tế cho những lao động ngoài khu vực chính thức, nhà nước đã khuyến khích họ tham gia vào hệ thống BHYT & BHXH tự nguyện. Còn đối với những đối tượng khó khăn, yếu thế về kinh tế thì chính phủ và cộng đồng sẽ thực hiện nghĩa vụ xã hội.


Gánh nặng kinh tế

Đè nặng lên những người trong độ tuổi lao động

(Trẻ cậy cha, già cậy con)

Trợ giúp của nhà nước, cộng đồng và xã hội nếu không còn cha mẹ

Nữ

Rủi ro kinh tế trong cuộc sống con người

•Thiên nhiên gây ra:bão lụt, hạn hán...

•Xã hội gây ra: Trộm cắp, tai nạn giao thông…

•Con người gặp phải: ốm đau, bệnh tật..

•Kinh tế gây ra: khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp…

Trợ giúp của nhà nước, cộng đồng và xã hội nếu họ sống độc thân


Hình 1.2: Vòng đời và những rủi ro trong cuộc sống của con người

Nguồn: Tác giả tự thiết kế dựa trên các tài liệu: [42], [43], [75]


Đối với những người sống ở khu vực nông thôn và làm nông nghiệp thì việc tiếp cận một cách thoả đáng tới hệ thống an sinh xã hội là đặc biệt cần thiết. Bởi hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện thiên nhiên; ít chịu sự tác động của khoa học công nghệ so với các khu vực khác. Thu nhập của người nông dân, do đó, thường thấp hơn so với những người làm việc ở những ngành nghề

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/12/2022