tự truyện truyền thống, khi hướng tới mục đích tổng kết cuộc đời mình, nhà văn phải đảm bảo tính chính xác, trung thực, bởi vậy, các sự kiện được sắp xếp theo trình tự thời gian tuyến tính. Như chúng ta đều biết, trên thế giới từng xuất hiện một số tác phẩm tự truyện kinh điển như David Copperfil của Ch. Dickens, hay bộ ba tác phẩm của M. Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi) theo đúng quan niệm truyền thống “là thể loại tự kể chuyện đời mình cách chân thực khách quan và không được phép hư cấu”.
Tuy vậy, khi nghiên cứu một số cuốn tiểu thuyết nổi tiếng trong văn học nữ thế giới như Jane Eyre của Charlotte, Người tình của Marguerite Duras,… hay những tác phẩm mới xuất hiện gần đây như Xin cạch đàn ông của Katarzyna Grochola, Tự truyện chưa hoàn tất của Alice A. Bailey, Điên cuồng như Vệ Tuệ của Vệ Tuệ,… các học giả đi đến nhận định rằng các tác phẩm của các nhà văn nữ đều chỉ mang khuynh hướng tự truyện chứ không phải là tác phẩm tự truyện theo đúng nghĩa bởi mối quan hệ sự thật – hư cấu, kí ức – trải nghiệm xung quanh tác phẩm. Tess Cosslett, Celia Lury và Penny Summerfield- những nhà nghiên cứu hàng đầu về Nữ quyền và Tự truyện trên thế giới nhận định: “Kí ức cũng có tính liên hệ giữa các góc nhìn chủ quan và tính đối thoại, một chức năng của việc xác định mỗi cá nhân và gắn kết về mặt xã hội. Mặc dù kí ức tưởng có thể là độc nhất của riêng mỗi chúng ta, nó cũng được khách quan hóa và là một yếu tố trong quy ước của cộng đồng và những nghi thức được chia sẻ. Sự hồi tưởng quá khứ thông qua bằng chứng cá nhân có thể dẫn tới một chiều hướng chính trị tùy thuộc vào những gì còn lưu lại và những gì bị lãng quên. Quyền tạo dựng giá trị, sự xác thực và sự thật không bao giờ chỉ thuộc về người kể chuyện”.
Vài năm gần đây trong đờ i số ng văn họ c Việ t Nam đương đạ i xuấ t hiệ n một vài cuốn sách được chắp bút và được coi là tự truyện như Lê Vân yêu và sống (Bùi Mai Hạnh ghi), Tôi mù (Nguyễ n Thanh Tú ) Bóng (Hoàng Nguyên và Đoan Trang ghi), Không lạc loài (Lê Anh Hoài ghi),… Mặc dù chúng được người khác viết theo lời kể của tác giả nhưng chú ng tôi cho rằ ng những cuốn tự truyện này chỉ
mang dáng dấp tự truyện chứ không hoặc chưa phải là những cuốn tự truyện văn học xét dưới góc độ thể loại. Như chúng tôi đã đề cập, nhìn chung, cái tôi của người Việt khá kín đáo bởi người Việt đã quen với cuộc sống của những cái ta cộng đồng trong môi trường văn hoá chung của nền văn minh nông nghiệp lúa nước (một nền văn minh coi trọng văn hoá cộng đồng). Vì vậy, văn học Việt Nam từ xưa đến nay vốn ít có truyền thống tác giả tự kể chuyện đời mình. Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới mạnh mẽ trong hệ hình tư duy và các quan niệm nghệ thuật, khuynh hướng tự truyện đang dần trở thành một khuynh hướng nổi bật. Chúng tôi nhận thấ y trong chiề u sâu sự thay đổ i nà y là vấ n đề nhậ n thứ c về cá c giá trị cá nhân
– cộ ng đồ ng, về hiệ n thự c và hư cấ u trong sá ng tạ o nghệ thuậ t . Khảo sát các tác phẩm văn xuôi nữ Việt Nam đương đại, chúng tôi nhận thấy tuy mỗi trang viết đều là những trải nghiệm của bản thân nhà văn, là hành trình đi tìm cái tôi của từng người, nhưng những chi tiết tiểu sử đã được nhào nặn lại, câu chuyện cuộc đời được cấu trúc và sắp xếp lại, tức là tác giả tách khỏi những yếu tố đời tư để thể hiện với một độ gián cách nhất định. Vì vậy, chúng tôi đi đến kết luận rằng văn xuôi nữ Việt Nam đương đại không có các tác phẩm tự truyện mà chỉ mang dấu ấn tự truyện, hay nói chính xác hơn là mang khuynh hướng tự truyện. Và như vậy , câu hỏi đặt ra với chúng tôi là: Vì sao có những tác phẩm người đọc nhận ra bóng dáng đời tư nhà văn, cái tôi của nhà văn, trong khi những tác phẩm khác thì không? Vì sao một số tác giả đương đại, đặc biệt là tác giả nữ lấy những trải nghiệm cá nhân, lấy chính cuộc đời mình làm chất liệu trong sáng tác? Và việc đưa những trải nghiệm cá nhân đó vào tác phẩm, những cây bút nữ đó có dụng ý gi? Và để trả lời cho những câu hỏi đó, chúng tôi xem xét những vấn đề mình đặt ra dưới góc độ và giác độ về phái tính và nữ quyền bằng cách khảo cứu bản thân tác phẩm và những yếu tố cuộc đời của bản thân chủ thể sáng tác. Về một phương diện nào đó, cái tôi cá nhân vừa là động lực vừa là kết quả của quá trình đổi mới văn học. Với những sáng tác có khuynh hướng tự truyện, khi nhà văn lấy chuyện đời tôi làm chất liệu sáng tác thì ý thức về cái tôi cá nhân cũng như sự thể hiện nó sẽ tạo nên những sắc
thái riêng biệt. Ý thức cái tôi cá nhân như một nguyên nhân tạo nên khuynh hướng tự truyện trong văn xuôi nữ những năm gần đây. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn học nước ta ở những năm đầu thế kỷ XXI đã bắt đầu mang tâm thức hậu hiện đại mà yếu tố tinh thần của nó là thái độ hoài nghi và sự phá vỡ mô hình đại tự sự [17]. Nếu như hệ hình tư duy hiện đại tập trung khám phá “con người bản chất” thì hậu hiện đại lại chú ý đến “con người quan hệ”. [9]. Và “Cho dù cả nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại đều mang thái độ hoài nghi nhưng sự khác biệt lớn nhất giữa hai giai đoạn này là ở chỗ: trong khi chủ nghĩa hiện đại hoài nghi thế giới nhưng vẫn tin vào cái tôi thì chủ nghĩa hậu hiện đại hoài nghi tất cả” [9]. Tuy nhiên, ở Việt Nam, giữa chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại ít khi được phân chia một cách rạch ròi và ít đẩy tới mức cực đoan mà thường có sự cộng sinh giữa chúng, thậm chí, nhiều yếu tố nghệ thuật tiền hiện đại vẫn hiện diện trong đời sống văn học. Dẫu vậy, về cơ bản, hệ hình tư duy nghệ thuật mới đã giúp cho văn học có những bứt phá mạnh mẽ và kéo theo sự xuất hiện của nhiều xu hướng, nhiều trào lưu mới trong đó có khuynh hướng tự truyện trong văn xuôi. Chúng ta có thể khẳng định, văn học Việt Nam đương đại từ sau năm 1975 đã đánh dấu một bước tiến mới của “ý thức tự ngã”. Trong bài viết Về quan niệm con người trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhấn mạnh ý thức cá nhân là yếu tố quan trọng làm đổi mới văn học. Theo ông, từ sau năm 1975, khuynh hướng phi sử thi hóa khiến cho “văn học trở lại với con người cá thể, quan tâm tới cá nhân: đề tài cái tôi, ý thức chủ thể, con người thân phận, cảm hứng đạo đức, tự vấn lương tâm,… đều là những biểu hiện của ý thức cá nhân”. Cái tôi cá nhân trong văn học đương đại thường được hiểu là sự nhấn mạnh đến những vấn đề của số phận cá nhân, nhu cầu được thể hiện tiếng nói của cá thể độc lập và nhu cầu thể hiện bản ngã và trong từng thể loại, từng tác phẩm, và bản thân người đọc, có thể tiếp cận nó ở các bình diện khác nhau. Mặc dù cho đến nay các tác phẩm văn xuôi có khuynh hướng tự truyện chưa hình thành một dòng riêng biệt nhưng nó được nhiều nhà văn quan tâm và thử nghiệm. Thậm chí, khá nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học thời
kỳ đổi mới đều phảng phất hơi hướng tự truyện. Tại đây, cái tôi của nhà văn vừa là mục đích khám phá, vừa có ý nghĩa như một phương tiện để tự sự. Điều đó nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa khuynh hướng tự truyện trong văn xuôi đương đại và sự đổi mới hệ hình tư duy, trong đó, có hai vấn đề đặc biệt quan trọng: vấn đề cái tôi cá nhân và mối quan hệ sự thật - hư cấu. Để tìm hiểu vấn đề cái tôi cá nhân và mối quan hệ giữa sự thật – hư cấu trong văn xuôi đương đại nữ những năm gần đây, chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tiểu sử. Trong nghiên cứu văn học, phương pháp tiểu sử thường được sử dụng để lý giải những mối quan hệ gần gũi giữa nhà văn và nhân vật hay cảm hứng tự thú và tự bạch. Đọc tiểu thuyết của một số cây bút nữ gần đây như Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê, Tiền định của Đoàn Lê, Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Một bàn tay thì đầy của Hoàng Việt Hằng, China town của Thuận, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Lạc chốn thị thành, Phòng trọ của Phong Điệp, người đọc có thể nhận thấy mối liên hệ rõ nét giữa các nhân vật chính trong tác phẩm và bản thân nhà văn trong cuộc đời thực. Dạ Ngân là một cây bút được nhắc đến nhiều khi người ta bàn đến mối quan hệ tác giả - nhân vật . Trong rất nhiều truyện ngắn của Dạ Ngân, người ta tìm thấy những “mảng” nào đó trong cuộc đời tác giả: Trinh nữ muộn kể về cô gái lỡ thì khư khư ôm trinh tiết; Quãng đời ấm áp kể chuyện một thời hạnh phúc bên đồng đội, bên những người tri kỷ giữa bom đạn chiến tranh; Nhà không có đàn ông nói về không gian chật hẹp của đại gia đình những người tiết phụ; Thời gian vĩ đại tái hiện tâm trạng người phụ nữ khi gặp lại người yêu cũ trong cuộc tình dở dang quá khứ; Vòng tròn im lặng là cuộc đối thoại giữa mẹ và con trong thời điểm phải lựa chọn tình yêu hay tình mẫu tử;… Trước khi tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân được xuất bản, độc giả đã có thể thấy được những nét vẽ sơ lược về cuộc đời tác giả qua truyện ngắn Con chó và vụ ly hôn. Con chó và vụ ly hôn kể chuyện về một vụ ly hôn diễn ra từ một lý do rất đỗi “vớ vẩn”, cảm tính, khó thành một nguyên nhân – đó là thái độ đối xử với con chó. Nhưng đằng sau vụ ly hôn đó, thực chất là Dạ Ngân muốn nói về sự khác biệt trong tâm hồn hai con người, và sự
cách biệt ngày càng lớn khi cuộc sống chung ngày càng có nhiều va chạm. Sự đồng điệu trong cuộc sống vợ chồng cần đến cảm xúc tinh tế để chia sẻ cảm nhận, nhưng điều đó hoàn toàn vắng bóng trong đời sống của cặp vợ chồng trong câu chuyện. Đến Gia đình bé mọn, câu chuyện hôn nhân của chính cuộc đời Dạ Ngân đã được khai mở. Chính sự cách biệt do thiếu hòa hợp về tâm hồn là nguyên nhân khiến gia đình tan vỡ. Chi tiết người vợ cảm nhận về cách cư xử của chồng như là giọt nước tràn ly khiến vết rạn nứt của họ càng trở nên sâu hơn: “Chồng nàng ít khi giỡn với con, chưa bao giờ anh ta tung Vĩnh Chuyên lên hay để nó ngồi trên vai như những người đàn ông sung sướng với con trai, trong khi đó anh rất thích săm sắn với lũ heo, vì nó đem lại niềm vui thực tế.” [93]. Cuộc tình trắc trở suốt hơn mười năm của nữ nhà văn Mỹ Tiệp gần như là phiên bản câu chuyện có thật trong Gia đình bé mọn của Dạ Ngân. Nếu so sánh một cách kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ thấy những chi tiết tiểu sử của nhân vật khá trùng khớp với tiểu sử hai nhà văn Nguyễn Quang Thân và Dạ Ngân: quê quán, lai lịch, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, tính cách. Tiểu sử của nữ nhà văn này được soi sáng phần nào qua Gia đình bé mọn, câu chuyện tình nổi tiếng trắc trở của bà với nhà văn Nguyễn Quang Thân được nhiều người trong văn giới biết đến. Trong các bài trả lời phỏng vấn về tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Dạ Ngân không khẳng định viết về mình nhưng tác giả cũng hé lộ những chi tiết kể về chuyện tình yêu của hai người hầu như trùng khớp với các chi tiết trong tác phẩm. Dạ Ngân viết Gia đình bé mọn như một “lời tự thú chân thành”. Cũng như vậy, Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê gồm mười hai truyện ngắn và vừa, có những tình tiết éo le được xây dựng từ ký ức có thật trong gia đình tác giả, gợi lại những đau thương của một thời không thể và cũng không được phép lãng quên: chiến tranh và bao cấp. Nhiều tác giả nữ khác như Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đoàn Lê, Hoàng Việt Hằng trong các tiểu thuyết Ký sự người đàn bà bị chồng bỏ, Tiền định, Một bàn tay thì đầy, cũng phơi trải cuộc đời mình qua các hình tượng nhân vật chính có tiểu sử, nghề nghiệp hay tính cách khá giống với người viết. Đa phần độc giả đều có thể nhận ra mặc dù nhà văn cố tình mờ hóa, xóa khoảng cách
hiện thực – hư cấu bằng cái vỏ mỏng manh: gọi chệch tên hoặc tên khác, lai ghép tính cách số phận của nhiều nguyên mẫu khác nhau, hoặc phân thân trong nhiều nhân vật. Trong Tiền định (Đoàn Lê), rất nhiều chi tiết tiểu sử được lấy từ cuộc đời nữ nhà văn: xuất thân trong gia đình nho học, tốt nghiệp trường điện ảnh, đa tài và duyên nợ với văn chương hội họa, đa đoan và lận đận trong tình duyên,… Nhân vật cô Chín vừa có nguyên mẫu từ Đoàn Lê vừa mang hình bóng người em gái Đoàn Thị Tảo của nhà văn. Theo lời tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc trả lời phỏng vấn, nhân vật chính trong Ký sự người đàn bà bị chồng bỏ mặc dù mang nhiều nét tính cách và in dấu những chặng đường đời của bản thân chị nhưng được đan ghép từ những mảnh đời khác nhau. Võ Thị Hảo từng nhìn nhận giá trị của những trang viết bước ra từ chính cuộc đời mình rằng: “Thân phận của tôi khiến tôi viết văn như cầu nguyện” [146]. Ở Nguyễn Thị Thu Huệ, người đọc có thể thấy bóng dáng của nhà văn, một phụ nữ sớm đi đến hôn nhân ở tuổi 20 để rồi cũng sớm gánh chịu bi kịch đổ vỡ gia đình, trong thân phận của các nhân vật nữ non nớt, nhẹ dạ, hấp hối đến với tình yêu và luôn nhận lấy kết cuộc dang dở, lỡ làng. Cũng như vậy, người đọc có thể thấy hành trình định cư của những người Triều Châu ở Việt Nam được tái hiện trong Lệ Mai của Lý Lan – tác phẩm được nhiều người cho rằng tác giả viết về chính người cha của mình. Và sau này, hình ảnh cô giáo trẻ với tâm trạng hụt hẫng, vỡ mộng trong các truyện ngắn Cần Giuộc, Chuyện kinh dị, Hai mươi mốt năm sau, Suối Sim, Chim Nhạn, Quá chén,… thường xuất hiện trở đi trở lại như tái hiện cuộc đời dạy học trong bốn năm tại một trường trung học của chính tác giả tại Cần Giuộc. Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết của các cây bút hải ngoại như Thuận, Lê Ngọc Mai, Đoàn Minh Phượng đều in dấu tiểu sử và hình bóng tác giả, với cốt cách tinh thần và tâm trạng tha hương có nhiều nét tương đồng. Trong China town, nhà văn Thuận đã tái hiện chính mình trong phiên bản mang số phận của những kẻ tha hương. Đó là quãng đời hơn 30 năm của chính tác giả khi phải dịch chuyển từ mảnh đất quê hương Hà Nội sang Nga, rồi sau đó dừng lại ở nước Pháp. Tìm hiểu vấn đề cái tôi cá nhân và mối quan hệ giữa sự thật – hư cấu trong văn xuôi đương
đại nữ những năm gần đây, chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh yếu tố tự thuật. Tự thuật vừa là điểm nhìn, là vị trí mà từ đấy, các cây bút nữ khái quát hóa và tái hiện đời sống hiện thực, là cảm hứng sáng tác hình thành nên thế giới của tác phẩm từ khuynh hướng tư tưởng, nội dung phản ánh cho đến bút pháp nghệ thuật, là hệ sinh thể hình tượng hiện hữu trên bề mặt tác phẩm. Những tác phẩm giàu tính tự thuật của nữ giới thể hiện rất rõ chân dung và cuộc sống cá nhân nhà văn. Nếu chú ý đến các tác phẩm văn học nữ Trung Quốc từ năm 1985 đến nay, chúng ta có thể thấy hiện tượng tự thuật rất phổ biến. Các cây bút nữ linglei không ngần ngại lấy tên mình đặt tên tác phẩm (ví dụ như Vệ Tuệ với Điên cuồng như Vệ Tuệ). Các cây bút nữ Việt Nam mặc dù vẫn còn khá dè dặt nhưng tính tự thuật trong tác phẩm của họ tương đối rõ. Với sự hiện diện đậm nét của người viết, việc miêu tả về bản thân nhà văn trong tác phẩm có khuynh hướng tự truyện đã minh chứng cho mối gắn kết giữa tác phẩm và cái tôi cá nhân. Thực ra, thể hiện bản thân và nói về mình trong tác phẩm không phải chuyện ai cũng muốn làm, nhưng vấn đề là ở chỗ, đã có những nhà văn coi đó như một hình thức hữu hiệu để nói về cuộc sống từ trải nghiệm cá nhân. Với họ, tự thuật là con đường đi vào cái tôi một cách sâu sắc nhất, mặc dù họ biết rằng, trong tiểu thuyết, do bản chất hư cấu của nó, tác giả ít khi xuất hiện trực tiếp trong vai trò người kể, người phát ngôn, mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái tôi thứ hai của nhà văn. Khi sử dụng thể loại tự thuật, sự cam kết ngầm của nhà văn với bạn đọc đã được thiết lập mà cơ sở của mối cam kết ấy là đồng nhất giữa người kể chuyện và nhân vật chính.Tự thuật trong cái nhìn của phân tâm học liên quan chặt chẽ với cái tôi bởi viết về mình, kể lại cho người khác những câu chuyện của mình cũng là một cách nghệ sĩ thoát khỏi sự dồn nén. “Nghệ sĩ giống như người bị bệnh nhiễu tâm, rút lui khỏi thực tế không thỏa mãn để đi vào thế giới tưởng tượng, song trái lại vẫn phải đặt chân vào thực tế. Những sáng tạo, những tác phẩm nghệ thuật của anh ta/chị ta là những thỏa mãn tưởng tượng cái ham muốn vô thức, giống như mộng; cũng như mộng, chúng có chung tính cách là một thỏa hiệp, bởi chúng cũng phải tránh xung đột không che đậy với sức mạnh
Có thể bạn quan tâm!
- Không/thời Gian Nghệ Thuật – Bức Tranh Thế Giới Qua Con Mắt Phụ Nữ
- Ngôn Ngữ, Giọng Điệu – Bước Đột Phá Của Diễn Ngôn Phái Tính
- Khuynh Hướng Tự Truyện Như Một Nét Đặc Thù Của Lối Viết Nữ
- Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu - 19
- Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu - 20
- Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu - 21
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
dồn nén” [85, tr.30]. Trong ý thức người viết, khi muốn kể lại câu chuyện đời họ, họ đã có ý thức sâu sắc về bản thân, chịu trách nhiệm trước quá khứ và cái tôi của bản thân, trân trọng những trải nghiệm và muốn tự khám phá, tìm hiểu chính mình. Từ những câu chuyện riêng tư và sự chồng xếp của vô vàn ký ức trong “hộp đen” của mình, nhà văn có thể kể về nó, tự bạch nó bằng nhiều con đường khác nhau mà không nhất thiết phải triển khai câu chuyện theo chiều tuyến tính và bị ràng níu bởi mối quan hệ nhân quả. Tiếp cận với văn bản, người đọc sẽ có dịp khám phá sâu hơn thế giới tinh thần của chủ thể sáng tạo, được “chơi” với những bí mật, được phép gỡ bỏ những cấm kỵ và những vùng nhạy cảm mà nhà văn đã từng giấu kín trước khi họ viết. Trong trường hợp này, bản thân việc hé mở bí mật đời tư cũng là một yếu tố kích thích sự tò mò của người đọc, thậm chí họ bị sốc. Dĩ nhiên, hứng thú cơ bản của người đọc, trên hết, vẫn là hứng thú truy tìm ẩn số cá nhân và đời sống thông qua ngôn từ như Marcel Proust xác nhận: tác phẩm là "sản phẩm của một cái tôi khác hơn" cái tôi ở ngoài đời. Cái tôi tác giả (hình tượng tác giả) là sự hóa thân của người sáng tạo vào tác phẩm, bởi vậy có thể nhận thấy nó qua hệ thống hình tượng nghệ thuật, nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. Do đặc trưng thể loại, khi người kể chuyện xưng “tôi” thì nó thường được đồng nhất với người viết, cái tôi tác giả được bộc lộ một cách trực tiếp. Nhưng trong các tác phẩm văn học, hình tượng tác giả là một sản phẩm mang tính sáng tạo, vì thế, việc nhận diện nó không đơn giản. M.Bakhtin cho rằng hình tượng tác giả thường được bộc lộ qua cái nhìn, điểm nhìn; còn W. Booth gọi đó là “tác giả hàm ẩn”. Các nhà lý luận hiện đại cho rằng, hình tượng tác giả là sản phẩm do người đọc phát hiện [85, tr.137].
Thực ra, như chúng ta đều biết, từ những năm 80, 90 thế kỷ trước, sự truy tìm và biểu đạt cái tôi của những cây bút nữ đương đại cũng không kém phần ráo riết. Phạm Thị Hoài với Thiên sứ, Phan Thị Vàng Anh với Khi người ta trẻ đã khám phá cái tôi từ những góc độ khác nhau. Cái tôi giàu tính nữ quyền được thể