Sự Cần Thiết Của Chính Sách Ưu Đãi Người Nhiễm Chất Độc Hóa

hợp kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và các nguồn vốn huy động thực hiện chương trình. Bộ chỉ số theo dõi thực hiện chương trình được xây dựng bởi cơ quan chủ chương trình và sự phối hợp của cơ quan chủ trì dự án thành phần.

Trong tổ chức, điều phối thực hiện chương trình có một hoạt động rất quan trọng là công khai thông tin về chương trình: cơ quan có liên quan đến thực hiện chương trình có trách nhiệm công khai thông tin về chương trình theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Hình thức công khai thông tin: phát hành văn bản đến các cơ quan liên quan; đăng trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan liên quan; thông báo trên phương tiện đại chúng.

Tổ chức sơ kết, tổng kết thực hiện chương trình. Hoạt động này nhằm rà soát lại tất cả những mặt được, chưa được, những khó khăn, tồn tại trong quá trình thực thi để báo cáo cấp có thẩm quyền có các biện pháp nhằm cải thiện nội dung, phương thức lãnh đạo quá trình thực thi chính sách trong giai đoạn tiếp theo.

Đánh giá chính sách công là giai đoạn đo lường chi phí, kết quả của việc thực hiện chính sách và các tác động thực tế của chính sách trong mối liên hệ với mục tiêu chính sách công, từ đó xác định hiệu lực và hiệu quả của một chính sách trong thực tế. Trên cơ sở kết quả của đánh giá chính sách công, các cơ quan nhà nước có thể đưa ra những điều chỉnh chính sách nếu thấy cần thiết. Các cơ quan nhà nước có thể điều chỉnh mục tiêu, thay đổi hoặc bổ sung các giải pháp mới, có thể quyết định tiếp tục theo đuổi hay chấm dứt chính sách.[7]

1.1.2.2. Sự cần thiết của chính sách ưu đãi người nhiễm chất độc hóa

học

Chính sách đối với người nhiễm chất độc hóa học là một bộ phận cấu

thành của chính sách an sinh xã hội. Trong khi đó, an sinh xã hội là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của một xã hội, một cộng đồng, một quốc gia. Được hưởng an sinh xã hội là một trong những quyền và đòi hỏi chính đáng của con người. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhấn mạnh: “An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình

thông qua một loạt các biện pháp công cộng, nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con” [2]. Văn kiện Đại hội XII của Đảng một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân” [46]. Quan điểm, chủ trương trên của Đảng được Nhà nước và các lực lượng xã hội thực hiện bằng các chính sách và chương trình nhằm bảo đảm cho mọi người dân ít nhất có được mức thu nhập tối thiểu, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin, ... thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của người dân và sự trợ giúp của Nhà nước.

Chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy, từ trước tới nay, trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước cũng luôn luôn xác định chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với Tổ quốc là một trong những chính sách lớn có vị trí rất quan trọng trong chiến lược con người. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) nhấn mạnh: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng” [2].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

1.1.2.3. Nội dung chính sách ưu đãi người bị nhiễm chất độc hóa học

Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến khắc phục hậu quả và đặc biệt chú ý đến các nạn nhân bị ảnh hưởng trong chiến tranh. Sau đây là một số văn bản pháp quy liên quan tới khắc phục hậu quả chất độc hóa học:

Vai trò nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ thực hiện chính sách ưu đãi người bị nhiễm chất độc hóa học đang sinh sống ở huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương - 4

- Thông báo số 69-TB/TW, ngày 05 tháng 05 năm 2002, của Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam về ý kiến của Bộ Chính trị đối với chủ trương của ta đối với việc giải quyết hậu quả của việc Mỹ sử dụng chất độc hoá học trong thời kỳ chiến tranh của Việt Nam. [33]

Thông báo số 292-TB/TW năm 2009 của Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam về kết luận của Ban Bí thư đối với việc giải quyết hậu quả chất độc da cam do Mỹ tiến hành trong chiến tranh ở Việt Nam và công tác chăm sóc, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, tổ chức hoạt động của Hội nạn nhân chất độc da cam/DIOXIN Việt Nam. [34]

- Quyết định số 74/1998/QĐ-TTg về việc điều tra, xác định nạn nhân bị hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. [21]

- Quyết định số 105/1998/QĐ-TTg, về việc cho phép Hội chữ thập đỏ Việt Nam thành lập Quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam do chiến tranh ở Việt Nam. [22]

- Quyết định số 33/1999/QĐ-TTg, về việc thành lập Ban chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. [23]

- Quyết định số 26/2000/QĐ-TTg, về một số chế độ đối với hộ gia đình có từ 2 người trở lên không tự phục vụ được do hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. [24]

- Quyết định số 16/2004/QĐ-TTg, về việc trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 2 người trở lên không tự phục vụ được do hậu quả chất độc hoá học của Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. [25]

- Quyết định số 120/2004/QĐ-TTg về một số chế độ đối với người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. [26]

- Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 về việc Ưu đãi người có công với Cách mạng. [19]

- Nghị định số 54/2006/ND-CP, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với Cách mạng. [9]

- Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. [10]

- Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT, Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/DIOXIN. [30]

- Nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định về miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015. [11]

- Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ- chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. [12]

- Quyết định số 251/2005/QĐ-TTg, về việc kiện toàn Ban chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. [27]

- Quyết định 651/QĐ-TTg, về Kế hoạch hành động quốc gia khắc phục cơ bản hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. [29]

- Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13, sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. [20]

- Quyết định số 1488/QĐ-BYT, về việc phê duyệt tài liệu chuyên môn Hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/DIOXIN. [31]

- Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã quy định rõ về thời gian và vùng quân đội Mỹ sử dụng chất độc trong chiến tranh ở Việt Nam làm căn cứ để xác nhận đối tượng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Đồng thời, việc giải quyết chế độ phải căn cứ danh

mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học do Bộ Y tế quy định. [15]

Theo đó, từ cơ sở pháp lý nói trên, ta có thể thấy, hiện nay, chính sách cho người bị nhiễm chất độc hóa học tương đối đa dạng, được thực hiện lồng ghép trong nhiều chương trình, dự án của nhà nước. Trong đó:

Đối với nhóm người có công bị nhiễm chất độc hóa học, tại Pháp lệnh người có công đã quy định như sau:

Chế độ trợ cấp hàng tháng đối với người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Các chế độ ưu đãi khác đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bao gồm:

Bảo hiểm y tế; cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người và khả năng của Nhà nước;

Điều dưỡng phục hồi sức khỏe hai năm một lần; trường hợp người suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được điều dưỡng phục hồi sức khỏe hàng năm;

Người suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được hưởng phụ cấp hàng tháng, nếu sống ở gia đình được trợ cấp người phục vụ;

Người phục vụ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học quy định tại điểm này được Nhà nước mua bảo hiểm y tế;

Ưu tiên giao hoặc thuê đất, mặt nước, mặt nước biển, vay vốn ưu đãi để sản xuất, miễn hoặc giảm thuế theo quy định của pháp luật, được hỗ trợ về nhà ở quy định tại khoản 4 Điều 4 của Pháp lệnh này;

Khi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí, thân nhân được hưởng một khoản trợ cấp.

Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tiền tuất như đối với thân nhân của bệnh binh.

Các chế độ ưu đãi đối với thân nhân của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bao gồm:

Con đẻ bị dị dạng, dị tật do hậu quả của chất độc hóa học không tự lực được trong sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng tự lực trong sinh hoạt được hưởng trợ cấp hàng tháng; được Nhà nước mua bảo hiểm y tế, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết căn cứ vào tình trạng dị dạng, dị tật;

Cha đẻ, mẹ đẻ; vợ hoặc chồng; con từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên được Nhà nước mua bảo hiểm y tế;

Con được hưởng chế độ ưu tiên, hỗ trợ quy định tại khoản 5 Điều 4 của Pháp lệnh này.

Khi con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đang hưởng trợ cấp hàng tháng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.

Điều 1 Nghị định 20/2015/NĐ-CP quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng: "Mức chuẩn để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng theo quy định tại Nghị định này là 1.318.000 đồng. [16]

Mặc dù, hiện nay, đối tượng là người dân là nạn nhân chất độc hóa học không phải là người hoạt động kháng chiến chưa được quy định rõ về chế độ trợ cấp, tuy nhiên, một bộ phận người dân vẫn đang được hưởng các chính sách trợ giúp xã hội, bảo trợ xã hội, chương trình lồng ghép, chủ yếu là chính sách với người khuyết tật, người nghèo, người cao tuổi, người không nơi nương tựa…

Cùng với chính sách ưu đãi người có công và hệ thống chăm sóc sức khỏe rộng khắp, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình quốc gia về kinh tế - xã hội; đã huy động toàn xã hội chăm lo cho các đối tượng người có công, người có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo trong đó có nạn nhân chất độc hóa học thông qua Chương trình xóa đói, giảm

nghèo; Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em; Chương trình 135; Chương trình 30a; Chương trình xây nhà tình nghĩa, nhà đồng đội; Hệ thống các quỹ: Quỹ nạn nhân chất độc da cam, Quỹ vì người nghèo, Quỹ đền ơn đáp nghĩa. Kết quả thực hiện các Chương trình và hoạt động của các Quỹ đã tạo ra phong trào xã hội rộng lớn, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các nhóm đối tượng này, trong đó có nạn nhân chất độc hóa học.

Để tiếp tục tăng cường năng lực, củng cố phát triển mạng lưới các cơ sở bảo trợ xã hội đáp ứng nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 524/QĐ-TTg phê duyệt Đề án củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2025 [32] với mục tiêu phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội cùng với chính sách an sinh xã hội khác đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đối tượng bảo trợ xã hội góp phần phát triển bền vững, khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội cho công tác trợ giúp xã hội; phát huy sự quan tâm và chăm sóc của xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

1.2. Nhân viên công tác xã hội

1.2.1. Khái niệm

Khái niệm Công tác xã hội: Hiệp hội công tác xã hội quốc tế và các trường đào tạo công tác xã hội quốc tế (2011) thống nhất một định nghĩa về công tác xã hội như sau: Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người.[46]

Công tác xã hội sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với với môi trường sống. Công tác xã hội có thể hiểu là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia

đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

Nhân viên công tác xã hội là những người hoạt động trong nhiều lĩnh vực, được đào tạo chính quy và cả bán chuyên nghiệp, được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong CTXH để trợ giúp các đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết; thúc đẩy sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường tạo ảnh hưởng tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn[56]

Nhân viên công tác xã hội Nhân viên công tác xã hội theo quan điểm tác giả Zastrow [56]: Nhân viên công tác xã hội là người được đào tạo công tác xã hội, sử dụng kiến thức hay kỹ năng để cung cấp các dịch vụ xã hội cho các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng, tổ chức, hay xã hội, nhân viên xã hội giúp đỡ con người tăng cường năng lực đối phó và giải quyết vấn đề và giúp đỡ họ tìm kiếm được các nguồn trợ giúp cần thiết, tạo điều kiện cho sự tương tác giữa các cá nhân và giữa con người với môi trường xung quanh họ, làm cho các tổ chức có trách nhiệm với con người và tác động đến các chính sách xã hội.

1.2.2. Lĩnh vực công tác

Người làm nghề CTXH còn có thể làm việc tại các mái ấm, nhà mở cho nhiều đối tượng như trẻ em, người có HIV, người già neo đơn, phụ nữ bị bạo hành. Các bệnh viện cũng cần nhân viên CTXH. Các tổ chức phi chính phủ, các dự án hỗ trợ con người và phát triển cộng đồng đều rất cần các chuyên gia, cán bộ chuyên ngành CTXH. Ví dụ: dự án xóa đói giảm nghèo, bảo trợ trẻ em có HIV... Ngoài ra, người làm nghề CTXH còn đi giảng dạy, tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, kỹ năng sống hoặc làm việc cho tổ chức từ thiện, mở phòng tham vấn tư nhân, giảng dạy...

Một số công ty cần có chuyên gia hỗ trợ đời sống cho nhân viên, hoặc các tập đoàn và ngân hàng lớn thường có phòng hoạt động xã hội, đây là nơi cần có chuyên gia CTXH vào làm việc. Tuy nhiên, theo Cục Bảo trợ xã hội

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 13/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí