Công Đoàn Phải Làm Tốt Vai Trò Bảo Vệ Người Lao Động Nhưng Không Cản Trở Doanh Nghiệp

việc bảo vệ lợi ích của NLĐ là xuất phát điểm và trọng tâm của việc đổi mới hoạt động công đoàn. Bảo vệ quyền lợi cho NLĐ là bảo vệ quyền cơ bản nhất của NLĐ, là cơ sở để thực hiện mọi quyền lợi xã hội khác. Việc bảo vệ của công đoàn phải dựa trên cơ sở pháp luật nhằm mục tiêu đưa đường lối, chính sách của Đảng, Bộ luật lao động, Luật công đoàn đến mọi DN, mọi thành phần kinh tế.

3.1.2. Công đoàn phải làm tốt vai trò bảo vệ người lao động nhưng không cản trở doanh nghiệp

Đối với Việt Nam, sự kiện gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) là quá trình phấn đấu bền bỉ. Để Việt Nam trở thành thành viên của WTO, Việt Nam phải chấp nhận các quy định chung của quốc tế, trong đó có việc tạo môi trường đầu tư lành mạnh. Các nhà đầu tư khi đến Việt Nam lập nghiệp đều nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nơi nào, lĩnh vực nào có lợi nhuận cao thì nơi đó, lĩnh vực đó sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Nếu vì bảo vệ lợi ích cho NLĐ mà làm thiệt hại cho nhà đầu tư sẽ tác động xấu làm giảm cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, trong việc bảo vệ lợi ích của NLĐ, công đoàn phải cân đối với lợi ích của nhà đầu tư.

Công đoàn cần lưu ý mối quan hệ giữa lợi ích của NLĐ và lợi ích của NSDLĐ trong DN. Việc bảo vệ lợi ích cuả NLĐ phải đi đôi với việc bảo đảm lợi ích cho NSDLĐ. Trên cơ sở, công đoàn đó đưa ra những đánh giá khách quan, công bằng và những yêu sách hợp lý, phù hợp với thực tế, bảo đảm lợi ích của các bên trong quan hệ lao động.

3.1.3. Công đoàn phải đủ mạnh để tham gia quan hệ với công đoàn quốc tế

Mục tiêu chung của công đoàn thế giới nói chung và công đoàn Việt Nam nói riêng khi tham gia công đoàn thế giới là nhằm mục tiêu chung của nhân loại, vì hoà bình độc lập dân tộc, vì mục tiêu sống lành mạnh, phát triển và tiến bộ xã hội. Khi tham gia vào phong trào công đoàn thế giới, công đoàn

Việt Nam tranh thủ học hỏi được kinh nghiệm lý luận cũng như thực tiễn của các công đoàn thế giới, hợp tác hữu nghị giữa lao động và công đoàn các nước. Để xây dựng được mối quan hệ với công đoàn công đoàn quốc tế, công đoàn Việt Nam cần mở rộng quyền chủ động của công đoàn các cấp trong hoạt động đối ngoại, tăng cường sự thống nhất công tác đối ngoại trong toàn hệ thống công đoàn.

Công đoàn phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức ngoại giao cho đội ngũ công đoàn làm công tác đối ngoại. Bên cạnh đó, công đoàn phải quan tâm đầu tư kinh phí, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí cho công tác đối ngoại của công đoàn theo phương châm tiết kiệm thiết thực và hiệu quả. Hoàn thiện và thống nhất áp dụng các quy chế quản lý hoạt động đối ngoại trong hệ thống công đoàn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho CĐCS và cán bộ công đoàn tham gia hoạt động đối ngoại trên cơ sở đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự chỉ đạo đúng hướng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Công đoàn cần nghiên cứu xây dựng chiến lược đối ngoại của công đoàn phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế góp phần tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn kỹ thuật, tài chính trong việc trao đổi kinh nghiệm hoạt động, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công đoàn nhất là về phương thức hoạt động, kinh nghiệm giải quyết xung đột lao động trong nền kinh tế thị trường.

Trong những năm qua, công đoàn Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường tình đoàn kết với phong trào công nhân và công đoàn thế giới. Đến nay, công đoàn Việt Nam đã có quan hệ với 30 tổ chức lao động và công đoàn quốc tế, đặc biệt là tổ chức lao động quốc tế (ILO), hơn 100 tổ chức công đoàn của các quốc gia trên thế giới. Các hình thức hợp tác quốc tế của công đoàn Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng từ trao đổi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

đoàn nghiên cứu, học tập đến phối hợp tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, lập và triển khai các dự án, tập huấn cán bộ công đoàn. Trong giai đoạn mới công đoàn Việt Nam phải mở rộng hơn nữa hoạt động quốc tế để góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của đất nước.

3.1.4. Tăng cường hoạt động của công đoàn ở khu vực ngoài Nhà nước

Vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay - 13

Quá trình hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam tìm kiếm lợi nhuận, tạo công ăn việc làm cho NLĐ Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân cũng đẩy mạnh các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế nhiều thành phần. Chính vì vậy, tăng cường hoạt động của công đoàn ở khu vực ngoài quốc doanh cũng là một yêu cầu cấp thiết đặt ra trong bối cảnh hiện nay. Đối với khu vực kinh tế này, công đoàn phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động thành lập tổ chức CĐCS, phát triển đoàn viên, góp phần làm chuyển biến nhận thức của NLĐ cũng như NSDLĐ, thúc đẩy dư luận xã hội cổ vũ ủng hộ việc thành lập tổ chức công đoàn. Tuyên truyền để NLĐ hiểu được những lợi ích thiết thân khi họ tham gia tổ chức công đoàn, giúp họ hiểu rõ được công đoàn là đại diện duy nhất hợp pháp cho quyền và lợi ích của họ. Gia nhập tổ chức công đoàn tham gia hoạt động công đoàn sẽ đem lại lợi ích cho chính bản thân họ, cho gia đình, cho DN và cho toàn xã hội. Hoạt động công đoàn sẽ đảm bảo lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.

Đối với NSDLĐ, công đoàn phải tuyên truyền cho họ thấy được quyền, lợi ích cơ bản lâu dài của DN khi thành lập tổ chức công đoàn. Đồng thời, giúp cho NSDLĐ có đủ khả năng thực hiện trách nhiệm của mình đối với NLĐ. Công đoàn phải làm sao để hai chủ thể này tìm thấy được tiếng nói chung.

Những yêu cầu trên đối với công đoàn là cơ sở để công đoàn có những biện pháp thích hợp nhằm thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình vì sự phát triển chung của công đoàn của đất nước vì mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

3.2. Một số kiến nghị

Kiến nghị với Nhà nước

Có kế hoạch đảm bảo sự cân đối trong đào tạo giữa người có trình độ đại học, trung học kỹ thuật và công nhân kỹ thuật; Cần nhanh chóng quy hoạch các trường dạy nghề, đào tạo công nhân theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý mới. Trước mắt, cần ưu tiên đầu tư kinh phí, nguồn lực và các quy định về cơ chế chính sách đối với công tác đào tạo lao động phục vụ cho một số ngành trọng điểm như đào tạo trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, CNVCLĐ làm công tác giao dịch với nước ngoài (đàm phán, giao dịch xuất nhập khẩu hàng hoá, hướng dẫn viên du lịch …), đào tạo lại công nhân, lao động hiện có tại các DN để họ nhanh chóng nâng cao trình độ tiếp thu và sử dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến hiện đại hiện nay; cũng như giáo dục tác phong lao động chuyên nghiệp.

Ban hành chính sách ưu đãi trong việc tuyển chọn những công nhân có thành tích cao trong học tập, công nhân giỏi nghề đi thực tập, tham quan ở các nước có nền công nghiệp phát triển để tạo động lực thúc đẩy phong trào học tập, nâng cao trình độ trong công nhân, lao động;

Nghiên cứu, ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào công tác đào tạo, bồi dưỡng công nhân; phát triển mạnh mẽ chủ trương xã hội hoá công tác đào tạo nghề, tăng cường công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề theo hướng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo nghề;

Nghiên cứu, thành lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp nhằm mục đích trợ cấp một phần để giúp NLĐ bị mất việc làm tạm thời ổn định cuộc sống và có khả năng tìm việc làm mới. Đổi mới hoạt động bảo hiểm xã hội theo hướng thực hiện chính sách bảo hiểm ngay từ khi NLĐ chưa lâm

vào tình trạng tạm mất khả năng lao động thông qua hoạt động tái tạo trực tiếp sức lao động bằng chế độ bồi dưỡng vật chất, nghỉ ngơi dưỡng sức định kỳ có kiểm soát;

Hoàn thiện quy trình ban hành hệ thống Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật nhằm nâng cao tính khả thi và các chế độ chính sách pháp luật phải được thực thi đồng bộ ngay sau khi Luật có hiệu lực thi hành; tình trạng hiện nay sau khi ban hành luật vẫn phải chờ đợi các văn bản hướng dẫn luật.

Đưa ra các chế tài buộc các DN thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, có chế độ thưởng, phạt DN thực hiện tốt hoặc không thực hiện đúng Luật, có như vậy mới tạo được sự bình đẳng trong hoạt động của DN và thực thi quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cá nhân khi tham gia các mối quan hệ. Kiên quyết xử lý nghiêm khắc, kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là pháp luật lao động nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật nghiêm, hạn chế vi phạm pháp luật, xây dựng quan hệ lao động ổn định;

Trong quá trình áp dụng tiếp tục bổ sung hoàn thiện Bộ Luật lao động; Luật Công đoàn cho phù hợp với tình hình thực tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt cần nghiên cứu sửa đổi các Điều khoản quy định về giải quyết tranh chấp lao động và đình công.

Tăng cường các hoạt động phối hợp và chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội, đặc biệt là các chính sách có liên quan đến quyền lợi của NLĐ.

Nên ban hành Luật bảo hộ lao động trong đó quy định rõ ràng, chi tiết các vấn đề an toàn vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, điều kiện làm việc... Luật bảo hộ lao động phải quy định rõ quyền kiểm tra, giám sát của công đoàn, hình thức kiểm tra, biện pháp xử phạt mà công đoàn được quyền áp dụng khi DN vi phạm công tác an toàn vệ sinh, lao động. Mặt

khác, cho phép công đoàn thành lập hội đồng bảo hộ lao động ở các tỉnh, thành phố với nhiệm vụ kiểm tra, giám sát công tác bảo hộ lao động ở các DN và hỗ trợ cho thanh tra công đoàn.

Kiến nghị với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

Đề nghị Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam kiến nghị với Chính phủ sớm nghiên cứu ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong DN.

Có giải pháp thiết thực, cụ thể để nâng cao hơn nữa việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NLĐ thông qua việc tham gia với Nhà nước hoạch định những chế độ, chính sách có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của NLĐ. Thực hiện tốt công tác này sẽ hạn chế được những bức xúc không đáng có trong công nhân, lao động từ việc ban hành những chế độ, chính sách không xuất phát từ nhu cầu lợi ích của NLĐ, không nhận được sự đồng tình cao của NLĐ;

Đề xuất những nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung vào Bộ Luật lao động, Luật Công đoàn đặc biệt là những điều khoản liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của NLĐ và tổ chức Công đoàn trong quan hệ lao động;

Tập trung nghiên cứu thông qua khảo sát, tổng kết thực tiễn hoạt động công đoàn các khu vực kinh tế để hoàn thiện cơ cấu tổ chức của công đoàn theo hướng ngành nghề và đổi mới các phương pháp hoạt động công đoàn. Nên hạn chế những can thiệp hành chính trong quá trình chỉ đạo, điều hành hoạt động công đoàn nhằm tạo ra những cơ chế khuyến khích sự năng động, sáng tạo của CĐCS và đoàn viên công đoàn trong điều kiện hoạt động công đoàn hầu hết sẽ được tiến hành trong thời gian ngoài giờ làm việc của DN và NLĐ;

Chủ động hoạch định chiến lược đào tạo cán bộ công đoàn, đặc biệt là cán bộ công đoàn chuyên trách; có kế hoạch đầu tư kinh phí thoả đáng cho công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo bồi dưỡng cán bộ công đoàn. Cần có cơ chế đãi ngộ và khuyến khích

vật chất tương xứng, động viên kịp thời để cán bộ công đoàn yên tâm tham gia các khoá đào tạo và phát huy tính năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong hoạt động công đoàn;

Nghiên cứu, ban hành chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm cho Chủ tịch công đoàn ở mọi thành phần kinh tế từ nguồn ngân sách của công đoàn cấp trên. Cần nghiên cứu xây dựng và ban hành cơ chế khen thưởng hợp lý và xứng đáng cho các cấp công đoàn, các cán bộ công đoàn có thành tích trong hoạt động công đoàn thay vì chỉ có các quyết định khen không thưởng kèm theo. Như vậy sẽ nâng cao và phát huy được đúng tính chất khen thưởng của cấp trên đối với các cấp công đoàn, các cá nhân cán bộ làm công tác công đoàn;

Đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý nguồn thu ngân sách, hoạt động tài chính công đoàn trên cơ sở định hướng để công đoàn các cấp tự cân đối, trên cơ sở đó phát huy cao tính chủ động trong quản lý và sử dụng ngân sách phục vụ cho hoạt động công đoàn;

Tập trung nghiên cứu sớm hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hệ thống công đoàn cho phù hợp, đồng thời có quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp công đoàn để đảm bảo cho hoạt động công đoàn đồng bộ, thống nhất và có hiệu quả. Muốn vậy, cần phải tách sự phụ thuộc của CĐCS vào NSDLĐ, phải làm sao để CĐCS hoạt động như một quan sát viên độc lập trong DN.

Nghiên cứu, ban hành cơ chế khuyến khích đối với đoàn viên công đoàn, trên cơ sở đó làm động lực thu hút đội ngũ lao động chưa phải là đoàn viên tự nguyện tham gia tổ chức công đoàn.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần chỉ đạo công đoàn các cấp tập trung ký kết thoả ước trong từng loại hình DN, trường hợp DN không xây dựng thoả ước sẽ bị áp dụng các biện pháp xử phạt tuỳ theo mức độ vi phạm. Sau khi thực hiện tốt công việc trên, công đoàn sẽ tiến hành ký kết thoả ước theo ngành đặc biệt với các ngành như: dệt may, da giày, xây dựng, chế biến

thuỷ sản trong đó phải hài hoà được lợi ích của NLĐ với lợi ích của DN. Trong việc ký kết thoả ước lao động tập thể ngành, công đoàn các cấp phải phối hợp chặt chẽ với nhau, lên kế hoạch phương án cụ thể. Xây dựng thoả ước tập thể ngành là một công việc khó đòi hỏi trình độ, sự cố gắng của mỗi các bộ công đoàn, mỗi cấp công đoàn. Vì vậy, trước khi tiến hành ký kết cần lựa chọn những cán bộ công đoàn có trình độ pháp luật, có kỹ năng thương lượng. Sau đó, thống nhất ý kiến giữa cán bộ công đoàn ngành để có những yêu cầu có lợi nhất cho NLĐ. Xây dựng tốt thoả ước ngành sẽ đảm bảo thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật, hạn chế mức thấp nhất tranh chấp lao động, đình công.

3.2.1. Về các qui định của pháp luật

Luật Công đoàn (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 3, ngày 20/6/2012 với 90,18% đại biểu tán thành. Ngày 02/7/2012, Chủ tịch nước đã ban hành Lệnh số 10/2012/L-CTN công bố Luật Công đoàn. Luật Công đoàn (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Luật Công đoàn 2012 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật

Công đoàn 1990, đáp ứng hoạt động của tổ chức công đoàn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời Luật Công đoàn sửa đổi nhằm kịp thời thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X về: “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Trên cơ sở đó, bảo đảm và phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của công đoàn trong thời kỳ mới, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Luật Công đoàn sửa đổi được kết cấu gồm 6 chương, 33 điều Luật. Trong đó, giữ bốn chương của Luật Công đoàn 1990, bổ sung thêm 2 chương mới, gồm:

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí