Vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay - 14

Chương III “Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với công đoàn” và chương V “Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về công đoàn”; tăng 14 điều Luật.

Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến sĩ Đặng Ngọc Tùng:

Có thể nói việc Quốc hội vừa thông qua Bộ Luật Lao động (sửa đổi) song song với Luật Công đoàn (sửa đổi) với nhiều quy định cụ thể, tiến bộ, bảo đảm quyền tổ chức và hoạt động công đoàn không chỉ cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công nhân – công đoàn mà còn khẳng định sự nhìn nhận của các vị đại biểu Quốc hội và toàn xã hội về vai trò, vị trí của giai cấp công nhân trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng như vị trí của công đoàn trong việc thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và CNVCLĐ.

Tuy nhiên, trên cơ sở nghiên cứu luật học viên đưa ra một số ý kiến như sau:

Thứ nhất, cần phải có những nghiên cứu xây dựng các quy định cụ thể bảo vệ cán bộ công đoàn, trước những hành vi đối xử bất bình đẳng từ phía NSDLĐ. Theo kinh nghiệm của một số nước nhằm bảo vệ cán bộ công đoàn nên quy định:

NLĐ là cán bộ công đoàn không chuyên trách được bảo đảm việc làm theo hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc đã giao kết với cơ quan, tổ chức, đơn vị, DN. Trường hợp hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hết hạn mà NLĐ đang trong nhiệm kỳ tham gia Ban chấp hành CĐCS, thì mặc nhiên được tiếp tục thực hiện hợp đồng đến hết nhiệm kỳ; nếu vẫn được tín nhiệm bầu tham gia Ban chấp hành CĐCS nhiệm kỳ tiếp theo thì được ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời

hạn bằng với thời hạn nhiệm kỳ của Ban chấp hành CĐCS. Tại điều 25 Luật Công đoàn 2012 đã ghi nhận việc đảm bảo quyền lợi cho cán bộ công đoàn. Tuy nhiên, với qui định như vậy DN vẫn có thể “sắp xếp” để cán bộ công đoàn nghỉ việc. Điều luật cũng chưa qui định rõ cơ quan có thẩm quyền là cơ quan nào ?. Theo học viên nên qui định: Cán bộ công đoàn không chuyên trách được quyền hưởng lương và các chế độ lao động nếu tiếp tục được công đoàn tín nhiệm bởi vì nhiệm vụ của công đoàn là bảo vệ quyền lợi của công nhân theo pháp luật chứ không phải bảo vệ quyền lợi của DN.

Trong thời gian NLĐ làm công tác công đoàn, cơ quan, tổ chức, đơn vị, DN sử dụng lao động không được có các hành vi đối xử bất bình đẳng với cán bộ công đoàn. Trong trường hợp NLĐ làm công tác công đoàn bị chủ sử dụng lao động đối xử bất bình đẳng thì công đoàn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp, bảo vệ. Luật cần qui định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp là cơ quan nào và trách nhiệm của cơ quan này cũng phải cụ thể để làm tăng hiệu lực thực thi.

Thứ hai, cần có những quy định pháp luật cụ thể về thành phần ban chấp hành CĐCS để Ban chấp hành CĐCS thực sự là người đại diện cho quyền lợi của công nhân lao động. Phải bảo đảm cán bộ công đoàn không bao gồm cán bộ quản lý, chủ DN hoặc người thân của họ, như vậy cán bộ công đoàn mới bảo vệ được quyền lợi NLĐ, tránh bị uy hiếp khi thực thi quyền và trách nhiệm của mình vấn đề này luật vẫn chỉ nói chung chung chưa có quy định cụ thể.

Thứ ba, tại Mục 2, Mục 3 Chương V Luật Lao động 2012 đã quy định cụ thể về trình tự thương lượng tập thể và TƯLĐTT nêu rõ đối tượng, nội dung, thời gian thực hiện, tuy nhiên việc đàm phán thương lượng, ký kết TƯLĐTT ở khá nhiều DN trên thực tế nặng hình thức, kéo dài không thực chất. Cần hoàn thiện, bổ sung các quy định về chế tài xử phạt đủ mạnh đối với

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

các vi phạm trong thương lượng, ký kết và thực hiện TƯLĐTT. Chính vì việc thiếu các quy định, chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm nên nhiều DN lợi dụng để né tránh, thậm chí không thương lượng, ký kết, đăng ký thỏa ước. Theo học viên nên qui định rõ DN khi đạt qui mô bao nhiêu lao động thì phải ký kết TƯLĐTT và thời hạn ký kết cụ thể là bao nhiêu ngày kể từ ngày các bên đã đạt được thỏa thuận tại phiên họp thương lượng tập thể.

Thứ tư, cần nghiên cứu để sửa đổi các quy định về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp lao động. Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO)

Vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay - 14

Hòa giải là sự nối tiếp của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng làm điều hòa những mâu thuẫn, bất đồng. Bên thứ ba đóng vai trò là người trung gian hoàn toàn độc lập với hai bên và hành động một cách vô tư, không thiên vị, tìm cách đưa các bên tranh chấp đạt tới điểm mà họ có thể thỏa thuận được với nhau. [74]

Luật cần qui định cụ thể về các điều kiện bắt buộc đối với hòa giải viên như trình độ, thời gian và kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực hòa giải lao động. Các khóa học và tập huấn bắt buộc đối với hòa giải viên.

Thứ năm, cần sửa đổi bổ sung hoàn thiện các quy định về quyền kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định pháp luật lao động của công đoàn. Thực tế pháp luật mới chỉ ghi nhận quyền kiểm tra, giám sát cho tổ chức công đoàn mà chưa quy định về trình tự, thủ tục thực hiện quyền cũng như các cơ chế pháp lý đảm bảo cho công đoàn có khả năng thực hiện được quyền đó trên thực tế. Do đó, tại một số DN vi phạm Luật Lao động, nhưng khi công đoàn yêu cầu được kiểm tra, giám sát thì chủ DN từ chối, không tiếp, họ chỉ tiếp khi có sự hiện diện của các cơ quan quản lý nhà nước mà công đoàn chỉ tham gia với tư cách thành viên. Nguyên nhân là do chưa có một văn bản có giá trị quy phạm nào quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động kiểm tra, giám sát của công đoàn. Để nâng cao hơn nữa năng lực kiểm tra, giám sát của tổ

chức công đoàn. Thêm vào đó luật cũng chưa qui định một trình tự ví như khi công đoàn kiểm tra, giám sát mà NSDLĐ bất hợp tác thì phối hợp với cơ quan ban ngành nào để xử lý và nhiệm vụ, trách nhiệm của cơ quan phối hợp với công đoàn trong vấn đề này ra sao?. Đối với vấn đề này luật có thể cho phép công đoàn đưa ra các khuyến nghị đối với chủ DN để DN kịp thời chỉnh sửa, đồng thời cũng qui định nếu DN để công đoàn đưa ra (ví dụ 03) khuyến nghị thì bị cơ quan chức năng tước giấy phép hoạt động.

Thứ sáu, theo tác giả nên tách bộ phận công đoàn ra khỏi sự phụ thuộc của DN, nên để cán bộ hoạt động công đoàn chuyên trách và hưởng lương trực tiếp từ nhà nước, trách nhiệm của NSDLĐ và NLĐ là phải nộp phí để đảm bảo hoạt động của công đoàn coi như đó là điều kiện đảm bảo trong thủ tục đăng ký kinh doanh, có thể tính đến việc thương mại hóa hoạt động của công đoàn bằng việc sử dụng các công ty luật tham gia vào hoạt động bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của NLĐ, khi đó NLĐ có quyền chọn và “thuê” người bảo vệ cho mình. Có như vậy mới đảm bảo được hoạt động có trách nhiệm và đúng pháp luật của công đoàn.

Thứ bảy, Để nâng cao trách nhiệm và phát huy vai trò của DN trong việc bảo đảm an sinh xã hội đối với NLĐ và cộng đồng, về mặt pháp luật cần xóa bỏ “những cái cớ” để DN lách luật, trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm (kể cả Bảo hiểm xã hội bắt buộc, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp) cho NLĐ bằng cách quy định DN phải đóng bảo hiểm cho tất cả NLĐ có giao kết hợp đồng lao động với DN, không phân biệt quy mô sử dụng lao động và thời hạn của hợp đồng lao động. Với những quy định về mức phạt, cần phải sửa đổi những điều khoản hiện hành theo hướng tăng cao, ở mức mà chỉ cần “dính” phạt một lần là DN không dám tái phạm.

Thứ tám, cần quy định cụ thể các chế tài pháp lý đối với các hành vi vi phạm luật công đoàn. Các quy định về chế tài pháp lý đối với các hành vi vi

phạm luật công đoàn đã được quy định trong luật công đoàn năm 2012, cụ thể: Tại Khoản 1 điều 31 chỉ quy định:

Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan đến quyền công đoàn thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, bồi thường thiệt hại hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. [49]

Các quy định như vậy còn chung chung, không có tính khả thi, việc xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ có thể được thực hiện khi pháp luật tương ứng có các quy định về hành vi vi phạm và chế tài xử lý cụ thể. Hiện nay, Chính phủ cũng chưa có quy định chi tiết việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về công đoàn.

Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định về trách nhiệm đối với số NLĐ không tham gia tổ chức công đoàn trong một thời gian nhất định sau khi ký kết hợp đồng lao động. Việc này giúp các công ty có thể duy trì công đoàn từ tiền lương của nhân viên để tiến hành các hoạt động chung của công đoàn, cũng là để đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ giữa NLĐ.

Thứ chín, cần qui định thêm về quyền hạn, trách nhiệm của công đoàn trong việc lãnh đạo công nhân đình công, biểu tình khi nguyên nhân không phải xuất phát từ tranh chấp lao động mà từ các nguyên nhân chính trị, xã hội khác. Thực tế thành phần công nhân, viên chức trong xã hội Việt Nam hiện nay là một lực lượng rất lớn, thời gian qua khi tình hình tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và việc Trung Quốc ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam đã có rất nhiều công nhân biểu tình phản đối Trung Quốc đồng thời biểu hiện tinh thần yêu nước. Tuy nhiên việc biểu tình đã dẫn đến bạo loạn ở một số khu công nghiệp gây thiệt hại về kinh tế, an ninh chính trị trong đó có nguyên nhân là công đoàn không lãnh đạo được các cuộc biểu tình này vì luật không qui định.

3.2.2. Về việc tổ chức thực hiện

Thứ nhất, phát triển đoàn viên đẩy mạnh hơn nữa việc thành lập CĐCS trong tất cả các DN thuộc mọi thành phần kinh tế nhất là trong các DN ngoài quốc doanh.

Đại hội X Công đoàn Việt Nam (nhiệm kỳ 2008 - 2013) đề ra Nghị quyết phát triển 1,5 triệu đoàn viên công đoàn. Để thực hiện chỉ tiêu này, ngay sau Đại hội X, Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã xây dựng chương trình phát triển đoàn viên 2008 - 2013 với mục tiêu chỉ đạo cụ thể là: Kết nạp mới ít nhất 1,5 triệu đoàn viên công đoàn, đến hết năm 2013 có 70% số DN đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam thành lập được CĐCS, tập hợp từ 60% trở lên số CNVCLĐ trong DN gia nhập công đoàn. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS, xây dựng CĐCS vững mạnh.

Ban Chỉ đạo Chương trình của Tổng Liên đoàn đã triển khai kế hoạch thực hiện với các nội dung nhiệm vụ cụ thể, trong đó chỉ đạo các liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành trung ương, công đoàn tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn tổ chức khảo sát, nắm tình hình DN, lao động; thực hiện đăng ký với Tổng Liên đoàn về kế hoạch phát triển đoàn viên năm 2009 - 2013.

Căn cứ số lượng đăng ký của các đơn vị (kết nạp mới 1.857.289 đoàn viên, thành lập 13.691 CĐCS) và tình hình phát triển công nghiệp của các địa phương, Tổng Liên đoàn đã giao chỉ tiêu cho các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành trung ương, công đoàn tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn với tổng chỉ tiêu kết nạp mới 1.870.000 đoàn viên (bằng 124,7% chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội X) và thành lập 13.691 CĐCS. Như vậy bình quân một năm trong nhiệm kỳ, các cấp công đoàn toàn quốc phấn đấu kết nạp 374.000 đoàn viên, thành lập 2.738 CĐCS. Có thể đánh giá đây là một trong những số liệu ấn tượng nhất, thể hiện sự quyết tâm của

các cấp công đoàn trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội X Công đoàn Việt Nam.

Sau hơn nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X, công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS đã “về đích” trước với những kết quả khả quan: Tổng số kết nạp mới 2.595.920 đoàn viên, vượt chỉ tiêu 73,1%; thành lập mới 24.691 CĐCS, vượt chỉ tiêu 80,3%, cụ thể các năm như sau:

Năm 2008 kết nạp mới 562.921 đoàn viên, thành lập 5.436 CĐCS. Năm 2009 kết nạp mới 580.715 đoàn viên, thành lập 6.331 CĐCS. Năm 2010 kết nạp mới 638.908 đoàn viên, thành lập 6.230 CĐCS. Năm 2011 kết nạp mới 813.376 đoàn viên, thành lập 6.677 CĐCS.

Trừ số giảm tự nhiên 1.274.750 đoàn viên và 6.513 CĐCS, đến hết năm 2011 đã tăng thực tế 1.321.170 đoàn viên và 18.178 CĐCS. Nâng tổng số đến 20/11/2011 cả nước có 7.535.584 đoàn viên và 111.319 CĐCS.

Có thể đánh giá công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS trong mấy năm qua đã đạt một số kết quả nổi bật sau: Số lượng đoàn viên kết nạp mới hàng năm đều vượt chỉ tiêu kế hoạch Tổng Liên đoàn giao, với số lượng năm sau cao hơn năm trước; tổng số đoàn viên kết nạp mới 4 năm đã vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm và tăng hơn nhiệm kỳ Đại hội IX Công đoàn Việt Nam trên 400 ngàn đoàn viên (giai đoạn 2003 - 2007 kết nạp hơn 2.1 triệu đoàn viên); tỷ trọng đoàn viên kết nạp mới khu vực ngoài nhà nước ngày càng cao so với tổng số đoàn viên mới kết nạp. Riêng năm 2011 phát triển mới khu vực ngoài nhà nước chiếm 81,1% tổng số đoàn viên và 78,7% tổng số CĐCS (bình quân nửa đầu nhiệm kỳ phát triển mới khu vực ngoài nhà nước chiếm 74,0% về đoàn viên và 74,2% về CĐCS).

Tuy nhiên, những thách thức đối với tổ chức công đoàn trong công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS giai đoạn tới chưa giảm. Kết quả khảo sát của các đơn vị cho thấy: Thời điểm tháng 10/2009 cả nước có

61.772 DN đang sử dụng từ 20 lao động trở lên, song mới có 29.075 DN đã thành lập tổ chức công đoàn, đạt 47,1%. Số còn lại 32.697 (52,9%) DN chưa thành lập CĐCS.

Với tốc độ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay, các cấp công đoàn cần dành sự đầu tư thỏa đáng và có những giải pháp hữu hiệu hơn trong công tác chỉ đạo, tuyên truyền phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, thì mới có thể hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu Công đoàn Việt Nam đề ra. Để làm được điều này công đoàn cần có các giải pháp cụ thể sau:

- Các cấp công đoàn tiến hành thường xuyên, có trọng điểm, đồng thời đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động thông tin đại chúng nhằm tuyên truyền, vận động NLĐ gia nhập công đoàn.

- Kiện toàn ban vận động phát triển công đoàn ngoài quốc doanh và đội ngũ tuyên truyền viên của các cấp công đoàn gồm cán bộ công đoàn có uy tín, am hiểu pháp luật, có kỹ năng vận động. Đồng thời có chính sách động viên hợp lý đối với cán bộ đang làm công tác tuyên truyền, phát triển đoàn viên. Đưa chỉ tiêu phát triển đoàn viên vào tiêu chuẩn xây dựng CĐCS vững mạnh hàng năm để nâng cao trách nhiệm của các CĐCS trong việc phát triển đoàn viên.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của mọi người, trước hết là các chủ thể trong quan hệ lao động làm cho các bên thấy được vai trò quan trọng của tổ chức công đoàn từ đó NSDLĐ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của CĐCS, NLĐ tự nguyện tham gia hoạt động công đoàn.

- Liên đoàn lao động cấp tỉnh, liên đoàn lao động cấp huyện phải tiến hành điều tra, nắm bắt tình hình các DN trên địa bàn để xác định những DN đủ điều kiện nhằm vận động NSDLĐ tạo điều kiện thành lập công đoàn. Đồng thời, liên đoàn lao động cần phải cử cán bộ công đoàn xuống từng DN gặp gỡ, tiếp xúc với NSDLĐ và NLĐ để vận động họ thành lập công đoàn.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí