Vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay - 15

- Đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh các hợp tác xã Việt Nam và các cơ quan chức năng của chính quyền địa phương để phối hợp trong việc thành lập CĐCS. Đồng thời đưa ra các chế tài áp dụng phù hợp đối với chủ DN cố tình tìm mọi cách trì hoãn, từ chối việc thành lập CĐCS.

Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật cho các đoàn viên, NLĐ nhất là các quy định của luật lao động, luật công đoàn và điều lệ công đoàn.

Điều quan trọng nhất là phải đưa Luật đi vào cuộc sống. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của các cấp công đoàn là phải triển khai ngay việc tuyên truyền cả hai đạo luật đến với từng đoàn viên và CNVCLĐ. Hiểu luật để thực hiện đúng, hiểu luật để bảo vệ quyền lợi của mình cũng chính là góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Đồng thời, hiện nay, các cấp công đoàn đang tiến hành đại hội để tiến tới Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, tôi đề nghị các cán bộ công đoàn phải nắm vững và cụ thể hóa quy định của Bộ Luật Lao động (sửa đổi) và Luật Công đoàn (sửa đổi) vào phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ mới, tạo điều kiện phát triển tổ chức công đoàn lên một tầm cao mới. Ngoài ra, phải khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ CĐCS đáp ứng nhu cầu phát triển mới của tổ chức công đoàn. [TS. Đặng Ngọc Tùng].

Công đoàn các cấp cần chủ động hoặc phối hợp với các ngành liên quan tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho CNVCLĐ, NSDLĐ, đội ngũ cán bộ quản lý các cấp. Trong đó, chú trọng việc tuyên truyền, phổ biến Luật Công đoàn cho các DN dân doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài.

Sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp với điều

kiện của cơ quan đơn vị, đặc điểm của từng đối tượng. Phát huy vãi trò của các phương tiện thông tin đại chúng nhất là các phương tiện thông tin của tổ chức công đoàn.

Các cấp công đoàn cần quan tâm, đầu tư phương tiện, điều kiện và nhân lực cho công tác này một cách thỏa đáng.

Thứ ba, không ngừng hoàn thiện công tác tố chức, nâng cao chất lượng, năng lực cán bộ công đoàn. Phải nâng cao năng lực, trình độ cũng như rèn luyện và bồi dưỡng phẩm chất, phong cách của cán bộ công đoàn cho phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế thị trường khi bảo vệ quyền lợi của NLĐ, giúp họ tự tin, vững vàng khi đứng ra thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn. Cán bộ công đoàn phải có kiến thức tương đối toàn diện đáp ứng được việc thực hiện chức năng, vai trò cũng như thiên chức cao cả của tổ chức công đoàn. Cán bộ công đoàn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn ngành nghề thuộc lĩnh vực mình công tác, có kiến thức pháp luật, hiểu biết về lý luận nghiệp vụ công tác công đoàn, có kỹ năng, năng lực vận động, thuyết phục, tổ chức cho quần chúng hoạt động và có sức khỏe, sự nhiệt tình trong công tác công đoàn.

Các cấp công đoàn phải quan tâm đến cơ sở, bám sát cơ sở để từ đó phát hiện, lựa chọn những đoàn viên điển hình tiên tiến, nhiệt tình, có năng khiếu trong hoạt động quần chúng để qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn. Đồng thời đẩy mạnh và không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng của cán bộ công đoàn. Muốn vậy, các cấp công đoàn cần có những giải pháp thiết thực, hiệu quả tăng kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Ngoài ra, công đoàn cần phải quan tâm tổ chức thực hiện tốt các chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ công đoàn, chú trọng tạo điều kiện để đội ngũ công đoàn được học tập, làm việc, tiếp xúc, giao lưu, trao đổi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

kinh nghiệm. Đặc biệt cần chủ động nghiên cứu đề xuất những cơ chế, chính sách bảo vệ động viên kịp thời về vật chất, tinh thần đối với cán bộ công đoàn, tạo động lực khuyến khích họ gắn bó, nhiệt tình với công tác công đoàn.

Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ công đoàn, nhất là kiến thức về pháp luật. Đồng thời thường xuyên cung cấp thông tin, tổ chức, trao đổi kinh nghiệm thực tế cho đội ngũ cán bộ công đoàn. Hơn nữa, các cấp công đoàn cần có quy định và tổ chức tốt việc thực hiện các quy định về khuyến khích lợi ích vật chất, động viên khích lệ kịp thời về tinh thần đối với cán bộ hoạt động có hiệu quả. Công đoàn cũng cần nghiên cứu đổi mới công tác tài chính công đoàn để cán bộ công đoàn không chuyên trách được hưởng phụ cấp từ kinh phí công đoàn cấp trên tương ứng và phù hợp với loại hình, qui mô của công đoàn. Bên cạnh đó, đối với cán bộ công đoàn cố tình không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình thì tổ chức công đoàn cũng cần phải có những chế tài cụ thể nhằm mục đích răn đe nhắc nhở đối với họ.

Vai trò của tổ chức công đoàn trong bảo vệ quyền của người lao động ở Việt Nam hiện nay - 15

Thứ tư, xây dựng phát triển quan hệ hợp tác giữa công đoàn với người sử dụng lao động.

Để xây dựng được mối quan hệ này thì ngoài việc hoạt động bảo vệ quyền lới của NLĐ công đoàn cần có những giải pháp và hoạt động để chia sẻ với những khó khăn của DN. Tham gia tích cực vào quá trình thúc đẩy sản xuất phát triển kinh tế của DN.

Thứ năm, cần tiếp tục đổi mới, phát triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa công đoàn với các tổ chức hữu quan nhằm giải quyết các vấn đề của quan hệ lao động.

Công đoàn cần thường xuyên phối hợp, trao đổi công tác với các đơn vị như công đoàn cấp trên, công an, báo chí các tổ chức bảo vệ lao động v.v… để giải quyết kịp thời và hiệu quả khi DN cố tình vi phạm pháp luật lao động, công đoàn.

Thứ sáu, xây dựng đời sống văn hóa trong CNVCLĐ

Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là xây dựng một mạng lưới thiết chế văn hóa bao gồm: Nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, nhà truyền thống, trường học, trạm y tế, sân vận động,... tạo nên cảnh quan văn hóa mới, góp phần mở mang dân trí, bồi dưỡng đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển nhân cách, hình thành lối sống và nếp sống mới.

CNVCLĐ là lực lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đời sống văn hóa cơ sở trong CNVCLĐ là các sinh hoạt văn hóa của CNVCLĐ gắn liền với địa bàn cư trú, làm việc, nghỉ ngơi và giải trí cùng với hệ thống các thiết chế văn hóa và dịch vụ ổn định. Đời sống văn hóa trong CNVCLĐ bao gồm các nhân tố cơ bản như: Nhà ở, việc làm và thu nhập ổn định từ lương và các khoản thu nhập khác; cơ sở vật chất cho sinh hoạt văn hóa cá nhân và gia đình (xe máy, ti vi, điện thoại, video...); các thiết chế văn hóa - xã hội cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng như trường học, thư viện, sân thể thao, nhà văn hóa, câu lạc bộ...; hệ thống các dịch vụ văn hóa - giải trí công cộng như quầy bán sách báo, cửa hàng băng đĩa hình, đĩa nhạc, internet...; môi trường cảnh quan khu cư trú như cảnh quan tự nhiên, môi trường sinh thái.

Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một chủ trương lớn mà nhiều đại hội của Đảng đã chỉ rõ:

Phải đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện đều có đời sống văn hóa.[92]

Quán triệt quan điểm của Đảng, trong những năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có những biện pháp chỉ đạo tích cực phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong CNVCLĐ. Trình độ dân trí, mức hưởng

thụ văn hóa của CNVCLĐ được cải thiện tốt hơn, tạo môi trường lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã hội, từng bước góp phần nâng cao đời sống văn hóa ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, DN.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động xây dựng đời sống văn hóa trong CNVCLĐ vẫn còn những yếu kém, bất cập: Việc đầu tư chỉ đạo về cơ sở vật chất cho phong trào xây dựng đời sống văn hóa, nhất là ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, ở các DN ngoài nhà nước chưa được quan tâm đúng mức; việc xây dựng đời sống văn hóa trong CNVCLĐ có nơi, có lúc còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu, chất lượng chưa cao; cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong CNVCLĐ còn nghèo nàn và thiếu thốn; những tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội trong CNVCLĐ còn diễn biến phức tạp, chưa được ngăn chặn kịp thời; đội ngũ cán bộ quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa trong CNVCLĐ còn thiếu, năng lực trình độ, nghiệp vụ còn yếu.

Để phong trào xây dựng đời sống văn hóa trong CNVCLĐ thực sự đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong thời gian tới, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục chỉ đạo các cấp công đoàn đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong CNVCLĐ về ý thức, tầm quan trọng của hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở gắn với nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, tập trung phổ biến cho công nhân, viên chức và lao động hiểu rõ nội dung và nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của NLĐ và người quản lý sử dụng lao động trong việc xây dựng đời sống văn hóa của cộng đồng với những nội dung chủ yếu sau:

- Chủ động tham gia cùng chính quyền và chuyên môn đồng cấp xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa thể thao và bộ máy làm công tác văn hóa cơ sở. Tích cực đầu tư xây dựng và trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị: Nhà

văn hóa, cung văn hóa lao động, thư viện, phòng đọc, nhà thi đấu, nhà ăn tập thể, khu vui chơi, khuôn viên văn hóa, trường học, nhà trẻ, dịch vụ thương mại... cho CNVCLĐ; Đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn có chuyên môn nghiệp vụ về tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao trong CNVCLĐ; Phát huy vai trò của các Trung tâm văn hóa thể thao các cấp ở địa phương vừa phục vụ quần chúng nhân dân, vừa phục vụ CNVCLĐ. Gắn xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao với xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng khu dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất: Giao thông, điện, nước, thông tin…; xây dựng bộ máy quản lý và đội ngũ công chức, nhân viên tham gia các hoạt động văn hóa của cộng đồng. Đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất và kinh phí, chính sách đãi ngộ cho cán bộ công đoàn và CNVCLĐ tham gia hoạt động văn hóa thể thao.

- Xây dựng khu tập thể CNVCLĐ văn minh góp phần xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh ở các cộng đồng dân cư, nơi CNVCLĐ lưu trú với các nội dung: Thực hiện xây dựng gia đình công nhân, viên chức và lao động mẫu mực; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, việc lễ hội; tham gia xây dựng tổ dân phố, khu dân cư tiên tiến; Giữ gìn trật tự an ninh, an toàn xã hội; giữ vệ sinh sạch đẹp, bảo vệ môi trường; tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, sinh hoạt cộng đồng dân cư; phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.

- Xây dựng môi trường văn hóa DN lành mạnh với các nội dung chủ yếu như: Xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương, pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý chuyên nghiệp, CNVCLĐ lành nghề; xây dựng, giữ vững thương hiệu, sản phẩm; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh; xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; xây dựng môi trường làm việc xanh - sạch - đẹp - an toàn, bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật khang trang, hiện đại.

- Xây dựng phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng; phát triển các câu lạc bộ sở thích trong CNVCLĐ; thu hút CNVCLĐ tham gia các hoạt động văn hóa - giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa chung như giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, tiền hôn nhân, thể dục thẩm mỹ, câu lạc bộ văn nghệ, tham gia sáng tác và biểu diễn nghệ thuật quần chúng, phát triển phong trào bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, quần vợt... Thực hiện tốt phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” trong CNVCLĐ.

- Cải thiện đời sống vật chất, tạo điều kiện để CNVCLĐ tham gia xây dựng đời sống văn hóa. Đảm bảo tiền lương và thu nhập thực tế của CNVCLĐ tương xứng với đóng góp của CNVCLĐ và mức tăng lợi nhuận của DN; thực hiện nghiêm túc các chính sách, pháp luật về lao động, bảo hiểm và an sinh xã hội, khai thác các nguồn lực để phát triển nhanh quỹ nhà ở cho CNVCLĐ, trước hết là CNVCLĐ nhập cư và những người có thu nhập thấp. Xây dựng các quỹ hỗ trợ từ thiện và phòng chống rủi ro cho CNVCLĐ. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong CNVCLĐ phải cụ thể bằng xây dựng một mạng lưới thiết chế văn hóa xã hội, tạo nên một cảnh quan môi trường văn hóa dân tộc, hiện đại. Đây chính là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các tổ chức chính trị xã hội.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác Nghiên cứu khoa học trong hệ thống công đoàn.

KẾT LUẬN


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kể từ ngày thành lập đến nay, Công đoàn Việt Nam luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc, đã tổ chức, vận động CNVCLĐ đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Phát huy truyền thống tốt đẹp đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục tổ chức, động viên CNVCLĐ đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Pháp luật của đa số các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật của nước ta, đều trao cho công đoàn những quyền năng nhất định. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau thì mức độ và phạm vi thực hiện quyền là khác nhau. Qua xem xét thực tiễn việc thực hiện các quyền của tổ chức công đoàn cho thấy công đoàn đã thể hiện khá tốt vai trò của mình cùng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác làm ổn định và phát triển thị trường lao động. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quyền đó công đoàn cũng còn nhiều hạn chế đặc biệt là cấp CĐCS. Thực tiễn này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như quy định của pháp luật còn nhiều bất cập, còn chung chung; chưa có các qui định cụ thể để bảo vệ cũng như có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ công đoàn; pháp luật trao quyền và trách nhiệm cho công đoàn rất lớn song điều kiện để thực hiện những quyền năng đó ở Việt Nam chưa được đảm bảo. Ngoài ra, bản thân tổ chức công đoàn cũng còn khá nhiều hạn chế trong tổ chức và đặc biệt là trong hoạt động như chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn còn thấp; cán bộ công đoàn chưa nhiệt tình với hoạt động …

Nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn là một trong những biện pháp

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí