Đối Với Phương Pháp Dựa Theo Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Dự Trữ Ngoại Hối

158


Phương pháp dựa vào cung tiền rộng M2: trong phương pháp này, mức DTNHTU bằng 20% cung tiền rộng M2 của năm. Theo kết quả thực nghiệm, với giai đoạn 2005 – 2008, DTNHTT vượt mức tối ưu. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2009 – 2017, mức dự trữ thực tế lại thấp hơn mức tối ưu rất nhiều. Mặc dù DTNH phục hồi lại vói tốc độ tăng trung bình hàng năm khá mạnh là 18.69% trong giai đoạn này nhưng cũng không lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trung bình của M2 là 16.10% nên DTNH không đuổi kịp M2. Điều này làm cho suốt cả giai đoạn sau khủng hoảng 2008, dự trữ thực tế vẫn cứ thấp hơn mức tối ưu nhưng khoản chênh lệch này được thu hẹp dần khi về cuối giai đoạn nghiên cứu.

Phương pháp ARA EM của IMF: Mô hình thực nghiệm cho Việt Nam:


R* = 30% STED + 20% OPL + 5% M2 + 10% X


với R*, STED, OPL, M2, X lần lượt là mức DTNHTU, nợ nước ngoài ngắn hạn, nợ nước ngoài khác thể hiện bằng vốn đầu tư gián tiếp, cung tiền rộng M2 và doanh số xuất khẩu. Kết quả thực nghiệm thể hiện trong giai đoạn 2005 – 2009, mức DTNHTT vượt mức tối ưu. Nhưng cũng tương tự phương pháp dựa vào doanh số nhập khẩu và cung tiền M2, giai đoạn 2010 – 2017, DTNHTT luôn thấp hơn mức tối ưu nhưng đến 2017, dự trữ thực tế xấp xỉ mức tối ưu. Tuy nhiên, mức sụt giảm không trồi sụt thất thường mà đi sát với mức tối ưu hơn so với các phương pháp truyền thống. Đó là do phương pháp ARA EM tổng hợp tất cả các yếu tố trong các phương pháp truyền thống để tính mức dự trữ tối ưu nên mang lại sự ưu việt hơn.

Tóm lại, kết quả thực nghiệm tính mức DTNHTU cho Việt Nam bằng phương pháp đo lường theo kinh nghiệm cho thấy Việt Nam cần phải tiếp tục gia tăng DTNH trong thời gian tới nhưng không cần đẩy nhanh việc dự trữ. Đồng thời, đối với phương pháp ARA EM chưa được thực nghiệm tại Việt Nam, luận án đã tiến hành thực nghiệm để có thêm bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam cũng như đề xuất thêm một phương pháp ước lượng mức DTNHTU cho Việt Nam.

5.1.2. Đối với phương pháp dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 313 trang tài liệu này.


Sau khi thực hiện phương pháp hồi quy OLS cho mô hình thực nghiệm gồm năm yếu tố ảnh hưởng đều là các biến dừng, hàm nhu cầu DTNH nhằm ước lượng mức DTNHTU cho Việt Nam được xác định như sau:

Ước lượng mức dự trữ ngoại hối tối ưu của Việt Nam - 23

159


lnrest = 4.985764 + 0.7826921* lngdpt - 1.822864 * expvt + 1.930064 * fpit

+ 1.777098 * ervt - 6.102439 * costt

với: biến lnres là nhu cầu DTNH hay mức DTNHTU;


biến lngdp là logarit của GDP, đại diện cho quy mô nền kinh tế;


biến expv là biến động xuất khẩu tính theo độ lệch chuẩn của mô hình ARCH(2),

đại diện cho tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai;


biến fpi là tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp/GDP, đại diện cho tính dễ tổn thương tài khoản tài chính;

biến erv là biến động tỷ giá tính theo độ lệch chuẩn của mô hình ARCH(4), đại diện

cho tính linh động của tỷ giá;


biến cost là lãi suất cho vay VND, đại diện cho chi phí cơ hội.


Dựa trên mô hình này, mức DTNHTU của Việt Nam được ước lượng và so sánh với mức DTNHTT. Kết quả cho thấy giai đoạn trước 2008, DTNHTT xấp xỉ hoặc vượt cao hơn mức tối ưu. Tuy nhiên, giai đoạn 2009 – 2011, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 2008 nên DTNH của Việt Nam sụt giảm mạnh, làm cho mức DTNHTT thấp hơn nhiều so với mức tối ưu. Trong giai đoạn 2012 – 2017, nền kinh tế Việt Nam phục hồi trở lại và DTNH Việt Nam lại tăng dần lên nên trong hầu hết thời gian, DTNHTT xấp xỉ hoặc vượt hơn mức tối ưu. Đến cuối giai đoạn nghiên cứu – quý 4/2017, DTNHTT vượt hơn mức tối ưu nhưng không nhiều, cụ thể là vượt 4 tỷ USD. Vì mức vượt không đáng kể nên DTNHTT hoàn toàn chưa đảm bảo đủ khả năng tài trợ tài khoản vãng lai và tài khoản tài chính vẫn đang tiếp tục gia tăng quy mô trong tương lai hay nói cách khác là chưa đảm bảo an toàn cho Việt Nam nếu có biến cố xảy ra gây tổn thương mạnh các tài khoản này. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục gia tăng DTNH trong thời gian tới nhưng cũng không nhất thiết đẩy mạnh tốc độ tăng dự trữ vì DTNHTT đã bắt đầu vượt qua mức tối ưu.

5.1.3. Đối với phương pháp dựa theo chi phí – lợi ích của dự trữ ngoại hối


Bằng cách vận dụng mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992), mô hình ước lượng mức DTNHTU cho Việt Nam dựa theo phương pháp chi phí – lợi ích của DTNH được thể hiện như sau:


* =

1


0

0

3476

60

.830

∗ π

trong đó: R* là mức DTNHTU.

r là chi phí cơ hội khi nắm giữ ngoại hối, được đại diện bằng lãi suất cho vay VND.

,103


=

C0 là chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia, được tính bằng tổn thất sản lượng GDP của Việt Nam trong giai đoạn suy giảm kinh tế 2008 – 2012 (mở rộng đến hết quý 2/2013 do vẫn còn tổn thất). Tổn thất này là chênh lệch giữa tổng GDP tiềm năng (đo bằng phương pháp Lọc HP) và tổng GDP thực tế trong giai đoạn suy giảm kinh tế. Kết quả tính được tổn thất sản lượng GDP là 8,582 ,000 USD.

R là DTNHTT, theo dữ liệu có sẵn được thu thập.


f

f

π là xác suất vỡ nợ quốc gia, được tính từ công thức:


mà f = - 0.0893224* time + 2.434472*opent - 0.1635649*fpivt + 0.8303476*lnstexdt + 13.198*fdt xác định được từ mô hình tính phí bù đắp rủi ro theo phương pháp ARDL với: open là độ mở thương mại đo bằng tỷ lệ nhập khẩu/ GDP; fpiv là biến động vốn đầu tư gián tiếp tính theo độ lệch chuẩn của mô hình ARCH(1); lnstexd là logarit tự nhiên của tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn/ DTNH; fd là tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước/ GDP và time là biến xu hướng thời gian.

Theo mô hình, mức DTNHTU có mối quan hệ cùng chiều với chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia và xác suất vỡ nợ quốc gia đồng thời có mối quan hệ ngược chiều với chi phí cơ hội và DTNHTT.

Dựa vào mô hình, mức DTNHTU được ước lượng và được so sánh với mức DTNHTT. Kết quả cho thấy trong suốt giai đoạn nghiên cứu 2005 – 2017, mức DTNHTU luôn vượt xa mức DTNHTT. Chỉ riêng có hai thời điểm trong suốt giai đoạn nghiên cứu là DTNHTT lớn hơn mức tối ưu. Đầu tiên là vào quý 3/2008, do chi phí cơ hội tăng mạnh lên mức cao nhất trong cả giai đoạn nghiên cứu nên dự trữ tối ưu giảm xuống và thấp hơn dự trữ thực tế. Thời điểm còn lại là đến cuối giai đoạn nghiên cứu – quý 4/2017, dự trữ thực tế gia tăng mạnh nên làm giảm mức dự trữ tối ưu đồng thời cũng vượt qua mức tối ưu. Tuy nhiên, mặc dù mức DTNHTT đã vươn lên, lớn hơn mức tối ưu vào cuối giai đoạn nghiên cứu nhưng DTNH của Việt Nam vẫn chưa đảm bảo an toàn bởi lẽ trong suốt cả giai đoạn nghiên cứu, mức

161


DTNHTT luôn luôn thấp hơn rất nhiều so với mức DTNHTU. Do đó, Việt Nam không được chủ quan và vẫn phải tiếp tục gia tăng DTNH trong thời gian tới nhưng không cần thiết đẩy nhanh tốc độ dự trữ.

Thêm vào đó, luận án cũng đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam cho phương pháp ước lượng mức DTNHTU với cách tiếp cận chi phí – lợi ích của DTNH dựa theo mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992) mà chưa được thực nghiệm tại Việt Nam. Mô hình này rất phù hợp với Việt Nam do có bao gồm yếu tố xác suất vỡ nợ quốc gia là một đặc thù của các nước đang phát triển. Như vậy, luận án đã thực hiện và đề xuất thêm một phương pháp ước lượng mức DTNHTU cho Việt Nam, giúp NHNN có thêm cơ sở lựa chọn khi tính toán mức DTNHTU.

Tóm lại, kết quả thực nghiệm cho Việt Nam đối với cả ba phương pháp ước lượng mức DTNHTU đều đi đến cùng một kết luận rằng Việt Nam vẫn phải tiếp tục gia tăng DTNH trong thời gian tới nhưng cần thực hiện cẩn trọng và theo kế hoạch chứ không cần thiết vội vàng đẩy nhanh tốc độ tăng dự trữ mà bỏ qua các tác động bất lợi đến nền kinh tế khi thực hiện.

5.2. LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG MỨC DỰ TRỮ NGOẠI HỐI TỐI ƯU PHÙ HỢP CHO VIỆT NAM

Mặc dù kết quả của cả ba phương pháp đều thống nhất rằng Việt Nam cần gia tăng DTNH trong thời gian tới cẩn thận và có kế hoạch chứ không gấp gáp đẩy nhanh tốc độ dự trữ nhưng rõ ràng Việt Nam cần lựa chọn một phương pháp phù hợp nhất trong ba phương pháp này để áp dụng và có thể ước lượng được mức DTNHTU có độ tin cậy cao cho quốc gia ở thời điểm hiện tại. Với phương pháp được lựa chọn áp dụng, các hàm ý chính sách cho Việt Nam được đưa ra đều dựa trên kết quả nghiên cứu của phương pháp này.

Để có thể chọn lựa phương pháp phù hợp cho Việt Nam, điều trước tiên là cần xác

định được các điều kiện lựa chọn.


5.2.1. Các điều kiện lựa chọn phương pháp phù hợp cho Việt Nam


Trong ba phương pháp ước lượng mức DTNHTU đã được trình bày và thực nghiệm cho Việt Nam, phương pháp được lựa chọn để áp dụng cho Việt Nam ở thời điểm hiện tại cần đảm bảo các điều kiện:

162


Một là, phương pháp được hình thành trên nền tảng lý thuyết có tính khoa học và được thừa nhận rộng rãi. Điều này nhằm đảm bảo tính chính xác và tính đáng tin cậy cao hơn của mức DTNHTU khi được ước lượng tại một quốc gia cụ thể.

Hai là, phương pháp phải linh hoạt và phản ánh được tình hình kinh tế của từng quốc gia riêng biệt, cụ thể là Việt Nam ở mỗi thời điểm hay mỗi giai đoạn khác nhau. Điều này nói lên rằng với phương pháp được chọn, mức DTNHTU ước lượng được tại một thời điểm hay giai đoạn đảm bảo đủ khả năng đáp ứng vai trò quan trọng của DTNH tương ứng với bối cảnh kinh tế riêng có của Việt Nam tại thời điểm hay giai đoạn đó. Vai trò quan trọng của DTNH cần được đảm bảo là khả năng tài trợ tài khoản vãng lai và tài khoản tài chính.

Ba là, phương pháp cần thể hiện những nét đặc thù của Việt Nam trong mô hình nghiên cứu, nhất là những nét đặc thù ở thời điểm hiện tại. Với điều kiện này, mức DTNHTU được ước lượng từ phương pháp trở nên phù hợp và tương thích nhiều hơn với thực tiễn Việt Nam, từ đó tạo nên độ tin cậy cũng như tính hiệu quả cao hơn khi áp dụng phương pháp vào Việt Nam trong bối cảnh hiện tại.

5.2.2. Đối với phương pháp đo lường theo kinh nghiệm


Mặc dù phương pháp này có ưu điểm là tính toán mức DTNHTU rất nhanh và đơn giản nên được sử dụng nhiều trong thực tế nhưng rõ ràng rằng phương pháp này không thỏa mãn các điều kiện để được lựa chọn áp dụng cho Việt Nam. Cụ thể:

Thứ nhất, mức DTNHTU trong phương pháp này không dựa trên nền tảng lý thuyết khoa học để hình thành mà chỉ dựa vào kinh nghiệm thực tiễn để đúc kết nên. Với các phương pháp truyền thống dựa vào doanh số nhập khẩu, dựa vào nợ nước ngoài ngắn hạn và dựa vào cung tiền rộng M2, mức tiêu chuẩn tối ưu của DTNH có được là từ các kinh nghiệm thực tiễn theo thời gian tạo nên và dần được thừa nhận. Với phương pháp ARA EM, mức tiêu chuẩn tối ưu được hình thành từ nghiên cứu thực nghiệm dữ liệu các nước mới nổi của IMF. Vì không được hình thành dựa trên một nền tảng lý thuyết nào nên tính chính xác và độ tin cậy của phương pháp đo lường theo kinh nghiệm là không cao khi áp dụng cho Việt Nam.

Thứ hai, mức tiêu chuẩn tối ưu trong phương pháp đo lường theo kinh nghiệm là những chuẩn mực cứng nhắc và không thay đổi dù áp dụng cho bất kỳ quốc gia nào,

163


ngoại trừ phương pháp ARA EM có phần nào uyển chuyển hơn khi còn phân biệt mức tối ưu theo tiêu chí chế độ tỷ giá và tính kiểm soát vốn của quốc gia nhưng thực ra, công thức tính DTNHTU vẫn còn chung cho nhiều quốc gia. Với cách thức thể hiện như vậy, phương pháp đo lường theo kinh nghiệm rõ ràng là không linh hoạt và không phản ánh được tình hình kinh tế riêng có của từng quốc gia. Các quốc gia đều có quy mô kinh tế, sức mạnh kinh tế và chính sách điều hành kinh tế khác nhau nên cần có tiêu chuẩn tối ưu khác nhau và phù hợp với mỗi quốc gia. Nếu lấy theo một tiêu chuẩn chung như thế, hiển nhiên phương pháp đo lường theo kinh nghiệm sẽ không thể áp dụng hiệu quả cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài.

Hơn nữa, các phương pháp truyền thống chỉ dựa vào một tiêu chuẩn nhất định nên mức tiêu chuẩn tối ưu chỉ thể hiện được hoặc vai trò tài trợ tài khoản vãng lai (phương pháp dựa vào doanh số nhập khẩu) hoặc vai trò tài trợ tài khoản tài chính (phương pháp dựa vào nợ nước ngoài ngắn hạn và phương pháp dựa vào cung tiền rộng M2), không bao quát được nhu cầu tài trợ của hai vai trò. Chính vì vần đề này mà khi thực nghiệm cho Việt Nam, kết quả của phương pháp dựa vào doanh số nhập khẩu hay cung tiền rộng M2 là mức DTNHTT luôn thấp hơn mức tối ưu trong giai đoạn 2009 – 2017, mâu thuẫn với kết quả của phương pháp dựa vào nợ nước ngoài ngắn hạn là DTNHTT cao hơn nhiều lần so với mức tối ưu trong suốt cả giai đoạn nghiên cứu. Tuy nhiên, mức dự trữ tối ưu theo phương pháp ARA EM thể hiện được cả hai vai trò quan trọng của DTNH do phương pháp này tính đến tất cả các tiêu chuẩn của các phương pháp truyền thống. Do vậy, phương pháp ARA EM có tính ưu việt hơn các phương pháp truyền thống.

Thứ ba, các phương pháp truyền thống không thể hiện nét đặc trưng nào của Việt Nam ở bối cảnh hiện tại khi hình thành mức tối ưu. Các yếu tố để xây dựng nên mức DTNHTU đều rất quen thuộc và có mặt ở bất kỳ quốc gia nào là doanh số nhập khẩu, nợ nước ngoài ngắn hạn, cung tiền rộng M2. Riêng phương pháp ARA EM hình thành nên mức tối ưu dựa trên việc nghiên cứu dữ liệu các nước mới nổi nên mức tối ưu sẽ mang tính đặc thù của các nước mới nổi, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, một điều không phù hợp là mức tối ưu này dành chung cho tất cả các quốc gia mới nổi chứ không có tiêu chuẩn riêng biệt cho từng quốc gia. Chính vì thế, khi

164


áp dụng phương pháp này vào Việt Nam, tính tương thích của mức tiêu chuẩn tối ưu với thực tiễn Việt Nam cũng giảm đi, làm cho độ tin cậy và tính hiệu quả của phương pháp sẽ không cao.

Tóm lại, nếu áp dụng phương pháp đo lường theo kinh nghiệm, Việt Nam nên chú ý đến phương pháp ARA EM do ưu việt hơn. Cụ thể, phương pháp này bao hàm tất cả các tiêu chuẩn của các phương pháp truyền thống và mức tối ưu theo phương pháp này thể hiện được cả hai vai trò quan trọng của DTNH là tài trợ cả tài khoản vãng lai và tài khoản tài chính. Hơn nữa, phương pháp ARA EM là dành cho các quốc gia mới nổi nên phù hợp với Việt Nam. Tuy nhiên, vì phương pháp đo lường theo kinh nghiệm không thỏa mãn được các điều kiện lựa chọn nên theo tác giả, phương pháp này không nên được lựa chọn để áp dụng cho Việt Nam.

5.2.3. Đối với phương pháp dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối

So với phương pháp đo lường theo kinh nghiệm, phương pháp này khắc phục được một số thiếu sót do đảm bảo được các điều kiện là mô hình ước lượng mức DTNHTU phù hợp và tương thích với bối cảnh kinh tế của từng quốc gia riêng biệt cũng như có tính đến yếu tố đặc thù của quốc gia trong mô hình. Điều này được thể hiện rõ khi xây dựng mô hình và thực hiện mô hình để tìm ra hàm nhu cầu DTNH.

Đầu tiên, khi xây dựng mô hình ước lượng mức DTNHTU cho quốc gia, các nghiên cứu đều dựa trên một số yếu tố đặc thù của quốc gia để quyết định những yếu tố ảnh hưởng đến DTNH nào được đưa vào mô hình và trở thành biến số của mô hình. Chẳng hạn như Khan và Ahmed (2005) hay Chowdhury và cộng sự (2014) xây dựng mô hình DTNHTU cho Pakistan hay Bangladesh đều cho rằng với các quốc gia này, kiều hối đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng DTNH so với các quốc gia khác nên kiều hối là biến số không thể thiếu trong mô hình. Khi xây dựng mô hình thực nghiệm cho Việt Nam, tác giả cũng dựa vào nét đặc thù là Việt Nam kiểm soát chặt việc chuyển đổi tài sản nội tệ sang ngoại tệ và kiểm soát chặt dòng vốn trong nước chuyển ra nước ngoài nên khả năng tháo chạy ồ ạt của dòng vốn trong nước sang tài sản ngoại tệ ở nước ngoài là khó xảy ra nên cung tiền rộng M2 – đại diện cho khả năng tháo chạy của dòng vốn trong nước sang nước ngoài – không cần thiết đưa vào mô hình và bị loại bỏ khỏi mô hình.

165


Tiếp theo, khi thực hiện mô hình, các nghiên cứu sẽ dựa trên dữ liệu các yếu tố ảnh hưởng của chính quốc gia đó để tìm ra hàm nhu cầu DTNH nhằm ước lượng mức DTNHTU. Điều này cho thấy mô hình ước lượng mức DTNHTU được tìm thấy tương thích với bối cảnh kinh tế của riêng từng quốc gia, giúp mô hình trở nên đáng tin cậy hơn.

Tuy nhiên, phương pháp này có một điểm yếu là chưa có một cơ sở lý thuyết thật sự vững chắc về các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH để dựa vào. Cho đến hiện giờ, một cơ sở lý thuyết về tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH vẫn chưa hiện diện. Chưa có công trình nghiên cứu nào về các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH khẳng định rằng công trình đã liệt kê được tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH. Vấn đề này đã dẫn đến một điều bất cập mà phương pháp dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH đã gặp phải. Đó là các nghiên cứu ước lượng mức DTNHTU theo phương pháp này không thống nhất với nhau về các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH được đưa vào mô hình cũng như cách thức đo lường từng yếu tố này. Điều này là do các nghiên cứu chưa có cơ sở lý thuyết vững chắc, đầy đủ và đáng tin cậy về các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH để dựa vào. Thậm chí là khi ước lượng mức DTNHU theo phương pháp này cho cùng một quốc gia, các nghiên cứu khác nhau đều sử dụng những yếu tố ảnh hưởng khác nhau để đưa vào mô hình. Chẳng hạn như Prabheesh và cộng sự (2007) cùng với Nainwal và cộng sự (2013) nghiên cứu mức DTNHTU của Ấn Độ hay Afrin và cộng sự (2014) cùng với Chowdhury và cộng sự (2014) cùng nghiên cứu mức DTNHTU cho Bangladesh (xem thêm mục 2.4.1 trong chương 2 về lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm liên quan). Khi thực nghiệm cho Việt Nam về phương pháp này, tác giả đã cố gắng lựa chọn mô hình các yếu tố ảnh hưởng dựa trên nền tảng lý thuyết về DTNH có tính khoa học đồng thời được nhiều nghiên cứu khác thừa nhận rộng rãi. Đó là mô hình của Edison (2003) gồm năm yếu tố ảnh hưởng đến DTNH được đưa ra dựa trên nền tảng lý thuyết căn bản về thành phần, nguồn hình thành cũng như vai trò của DTNH. Hơn nữa, các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH trong nghiên cứu của Edison (2003) được rất nhiều các nghiên cứu về sau vận dụng để đưa vào mô hình.

Tóm lại, mặc dù phương pháp dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH thỏa mãn

các điều kiện lựa chọn là tương thích với bối cảnh kinh tế của riêng từng quốc gia

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023