Đối Với Phương Pháp Dựa Theo Chi Phí – Lợi Ích Của Dự Trữ Ngoại Hối

166


cũng như có đưa thêm yếu tố đặc thù của quốc gia vào mô hình nhưng phương pháp này lại không thỏa mãn điều kiện lựa chọn là có cơ sở lý thuyết thực sự vững chắc về yếu tố ảnh hưởng đến DTNH để dựa vào. Điều này làm cho mỗi nghiên cứu sử dụng những yếu tố ảnh hưởng khác nhau và vì thế đã ảnh hưởng phần nào đến tính chính xác và mức độ tin cậy của phương pháp này. Do đó, phương pháp dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH không nên được lựa chọn áp dụng cho Việt Nam.

5.2.4. Đối với phương pháp dựa theo chi phí – lợi ích của dự trữ ngoại hối

So với hai phương pháp đo lường theo kinh nghiệm và dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến DTNH, phương pháp này thỏa mãn cả ba điều kiện lựa chọn để áp dụng cho Việt Nam.

Thứ nhất, phương pháp này có nền tảng lý thuyết với lập luận khoa học và đã xuất hiện khá lâu. Người đầu tiên đặt nền móng cho phương pháp ước lượng mức DTNHTU dựa trên cách tiếp cận “chi phí – lợi ích” của DTNH là Heller, H.R. vào năm 1966. Tiếp sau đó, rất nhiều nghiên cứu đã vận dụng cách tiếp cận “chi phí – lợi ích” của DTNH này để đưa ra nhiều mô hình ước lượng mức DTNHTU cho quốc gia, trong đó nổi bật lên hai mô hình được nhiều nghiên cứu về sau thừa nhận và vận dụng rộng rãi là mô hình của Frankel và Jovanovic (1981) và mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992). Các mô hình này đều có lập luận khoa học và tính toán tương đối phức tạp để ước lượng được mức DTNHTU. Vì dựa trên nền tảng lý thuyết được lập luận và chứng minh khoa học, mô hình ước lượng mức DTNHTU theo phương pháp này đảm bảo độ tin cậy và chính xác hơn. Theo đó, tác giả đã lựa chọn mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992) để thực nghiệm cho Việt Nam vì mô hình này phù hợp với Việt Nam hơn.

Thứ hai, với mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992), việc tính toán các biến số trong mô hình đòi hỏi phải dựa trên dữ liệu kinh tế của riêng từng quốc gia. Vì thế, khi áp dụng mô hình này cho Việt Nam, các biến số trong mô hình được tính toán dựa trên dữ liệu kinh tế của Việt Nam nên hiển nhiên, mô hình ước lượng mức DTNHTU được tìm thấy sẽ phù hợp và tương thích với bối cảnh kinh tế của riêng Việt Nam, thỏa mãn điều kiện lựa chọn thứ hai để áp dụng cho Việt Nam.

Thứ ba, mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992) được thực nghiệm cho Việt

Nam có đưa thêm yếu tố rủi ro vỡ nợ quốc gia vào mô hình. Yếu tố này là một đặc

167


trưng riêng của các quốc gia đang phát triển và mới nổi, trong đó có Việt Nam. Như vậy, điều kiện lựa chọn thứ ba là cần đưa thêm yếu tố đặc trưng của Việt Nam vào mô hình đã được đáp ứng.

Thật vậy, nợ nước ngoài của quốc gia là vấn đề nóng hiện nay của Việt Nam, rất được Chính phủ và người dân quan tâm do nợ nước ngoài đang tăng nhanh những năm gần đây, được thể hiện trong Bảng 5.1.

Bảng 5.1. Nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017


NĂM

NỢ NƯỚC NGOÀI (USD)

GDP HIỆN HÀNH (USD)

TỶ LỆ NỢ NƯỚC NGOÀI/ GDP (%)

2005

18,530,479,000

52,724,194,257.71

35.146

2006

18,686,347,000

60,653,379,009.65

30.808

2007

23,070,521,000

71,367,061,759.20

32.327

2008

26,435,435,000

84,508,578,291.20

31.281

2009

32,702,629,000

89,744,520,807.40

36.440

2010

44,901,572,000

101,585,333,333.33

44.201

2011

53,886,305,000

120,585,234,835.52

44.687

2012

61,576,671,000

155,580,968,360.50

39.579

2013

65,452,000,000

169,669,207,100.59

38.576

2014

72,429,832,000

184,184,097,287.18

39.325

2015

77,827,377,000

186,018,722,271.52

41.838

2016

86,952,492,000

197,618,301,514.15

44.000

2017

107,802,946,000

220,188,036,067.74

48.959

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 313 trang tài liệu này.

Ước lượng mức dự trữ ngoại hối tối ưu của Việt Nam - 24

Nguồn : Worldbank, GSO (2018) và tác giả tính toán


Trong giai đoạn 2015 – 2017 gần đây, nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng nhanh và đến cuối 2017, nợ nước ngoài chiếm đến 48.9% GDP, gần chạm mức trần 50% mà Quốc Hội cho phép. Đến cuối năm 2018, tỷ lệ này có giảm xuống một ít nhưng vẫn ở mức rất cao, chiếm 46% GDP (Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, 2019). Như vậy, khi nợ nước ngoài càng nhiều và chiếm tỷ trọng cao so với GDP thì rủi ro vỡ nợ quốc gia cũng gia tăng lên và dần được chú ý hơn, trở thành một yếu tố đặc thù của Việt Nam giai đoạn hiện tại. Do đó, việc đưa thêm yếu tố rủi ro vỡ nợ quốc gia vào mô hình ước lượng mức DTNHTU cho Việt Nam là rất phù hợp với bối

168


cảnh kinh tế hiện tại của Việt Nam, khiến cho mô hình có tính đáng tin cậy cao hơn

khi áp dụng cho Việt Nam ở thời điểm hiện tại.


Tóm lại, phương pháp dựa theo chi phí – lợi ích của DTNH thông qua mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992) thỏa mãn cả ba điều kiện lựa chọn để áp dụng cho Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Mô hình này hình thành trên nền tảng lý thuyết khoa học, tương thích với bối cảnh kinh tế Việt Nam và đáng tin cậy do bao gồm vào mô hình cả yếu tố đặc thù hiện tại của Việt Nam là dễ gặp phải rủi ro vỡ nợ quốc gia.

Vì thế, trong ba phương pháp chính ước lượng mức DTNHTU đã trình bày, Việt Nam nên lựa chọn phương pháp dựa theo chi phí – lợi ích của DTNH với mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992) để ước lượng mức DTNHTU cho quốc gia.

5.3. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM


Việc thực nghiệm ba phương pháp ước lượng mức DTNHTU cho Việt Nam và so sánh với mức DTNHTT đều đi đến kết luận chung rằng Việt Nam vẫn cần gia tăng DTNH trong thời gian tới nhưng không nhất thiết phải đẩy nhanh tốc độ dự trữ. Dựa trên kết luận này, tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam nhằm kiểm soát mức DTNHTU và gia tăng DTNH trong thời gian tới.

Tuy nhiên, vì phương pháp ước lượng mức DTNHTU dựa theo chi phí – lợi ích của DTNH với mô hình của Ben-Bassat và Gottlieb (1992) thích hợp để lựa chọn áp dụng cho Việt Nam ở thời điểm hiện tại nên tác giả chỉ nêu lên các hàm ý chính sách cho cơ quan quản lý nhà nước nói chung và NHNN nói riêng dành cho phương pháp này.

5.3.1. Hoàn thiện cách tính các biến của mô hình ước lượng mức dự trữ ngoại hối tối ưu theo phương pháp chi phí – lợi ích của dự trữ ngoại hối

Trong mô hình ước lượng mức DTNHTU đã tìm được dựa theo phương pháp chi phí – lợi ích của DTNH, các biến số của mô hình như chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia, xác suất vỡ nợ quốc gia hay chi phí cơ hội thật sự rất khó xác định một cách chính xác. Trong khi đó, với mô hình này, mức DTNHTU được ước lượng lại rất nhạy cảm với sự biến động của các biến số. Một sự thay đổi không nhiều trong các biến số có thể dẫn đến sự tăng giảm đáng kể của DTNHTU. Vì thế, nếu sử dụng mô hình này để ước lượng mức dự trữ tối ưu, NHNN cần ý thức được rằng phải tính

169


toán chính xác các biến số càng nhiều càng tốt. Với tầm vóc đại diện cho quốc gia trong quản lý tiền tệ, NHNN hoàn toàn có thể thu thập dữ liệu với thời gian dài hơn, đầy đủ và chính xác hơn cũng như có thể sử dụng nhiều kỹ thuật tính toán hiện đại và phức tạp hơn. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc xác định chính xác các biến số của mô hình. Cụ thể:

Thứ nhất, đối với chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia, chi phí này được đại diện bằng tồn thất sản lượng quốc gia do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới vì Việt Nam chưa trải qua biến cố vỡ nợ. Trong luận án, với giới hạn của mình, tác giả chỉ có thể thu thập được dữ liệu để tính tổn thất sản lượng cho cuộc khủng hoảng năm 2008. Đối với NHNN, để tăng thêm độ chính xác khi tính chi phí này, NHNN có thể thu thập dữ liệu để kéo dài thời gian nghiên cứu về những năm 1990 để tính tổn thất sản lượng của Việt Nam khi bị tác động bởi cuộc khủng hoảng năm 1997. Từ đây, NHNN có thể so sánh tổn thất sản lượng của Việt Nam trong hai cuộc khủng hoảng và tìm cách xác định các giới hạn tổn thất tối đa và tối thiểu. Như vậy, NHNN sẽ có thể lựa chọn được chi phí tổn thất sản lượng ở mức tối đa, tối thiểu hay trung bình phù hợp với mục đích mà NHNN muốn hướng đến khi ước lượng mức DTNHTU.

Thứ hai, đối với xác suất vỡ nợ quốc gia, biến số này được tính dựa trên mô hình tính phí bù đắp rủi ro. Vì thế, nếu mô hình này được ước lượng chính xác, xác suất vỡ nợ tính được cũng chính xác hơn. Trong khi đó, mô hình này lại được ước lượng dựa theo phương pháp hồi quy với nhiều biến giải thích. Do vậy, để mô hình chính xác và đáng tin cậy hơn nữa, NHNN cần kéo dài thời gian nghiên cứu rộng hơn so với giai đoạn 2005 – 2017 trong bài nghiên cứu này. Đồng thời, NHNN cần thu thập dữ liệu nợ nước ngoài ngắn hạn cho thật chính xác so với việc phải dùng phương pháp nội suy để có tần suất quý của dữ liệu này trong luận án. Hoặc khi tính phí bù đắp rủi ro, để chính xác hơn, NHNN có thể sử dụng lãi suất cho vay có tính đến yếu tố rủi ro vỡ nợ quốc gia chính là lãi suất vay nợ nước ngoài của Việt Nam mà NHNN có thể thu thập được dữ liệu thay vì phải dùng lãi suất cho vay VND để thay thế biến số này theo luận án. Ngoài ra, NHNN cần phân tích và thu thập thêm dữ liệu để có thể đưa thêm nhiều biến giải thích hơn nữa vào mô hình so với luận án

170


chỉ sử dụng bốn biến giải thích là độ mở thương mại, biến động vốn đầu tư gián

tiếp, tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn/ DTNH và tỷ lệ thâm hụt ngân sách/ GDP.


Thứ ba, đối với chi phí cơ hội khi nắm giữ ngoại hối, đây là biến số khó ước lượng chính xác và cũng chưa có cách tính thống nhất. Vì thế, NHNN có thể sử dụng nhiều cách tính chi phí cơ hội khác nhau để có thể lựa chọn được chi phí cơ hội phù hợp nhất. Chi phí cơ hội là chênh lệch giữa thu nhập cao hơn nếu chuyển DTNH thành vốn thông thường để đầu tư và thu nhập thấp hơn có được khi đầu tư tài sản ngoại hối đang dự trữ. Như vậy, chi phí cơ hội có thể được tính bằng một mức lãi suất đại diện cho khoản chênh lệch này, hoặc bằng hai mức lãi suất đại diện cho hai khoản thu nhập trong định nghĩa chi phí cơ hội trừ cho nhau, hoặc sử dụng các công thức tính toán chi phí cơ hội là (1+i)/ (1+i*) hay (i - i*)/ (1+i*) với i là lãi suất thu được nếu chuyển DTNH thành vốn thông thường để đầu tư và i* là lãi suất thực sự có được tử đầu tư ngoại hối đang dự trữ. Các mức lãi suất được chọn đại diện cho hai khoản thu nhập này cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tăng mức chính xác khi tính toán chi phí cơ hội.

5.3.2. Ước lượng trước mức dự trữ ngoại hối tối ưu cho năm kế hoạch


NHNN cần ước lượng trước mức DTNHTU cho năm kế hoạch. Trong mô hình ước lượng mức DTNHTU đã tìm được dựa theo phương pháp chi phí – lợi ích của DTNH, các biến số của mô hình bao gồm chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia, chi phí cơ hội, xác suất vỡ nợ quốc gia và DTNHTT. Như vậy, khi ước lượng mức dự trữ tối ưu cho năm kế hoạch, ngoài biến số chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia đã được xác định và không thay đổi cùng với biến số DTNHTT chính là mức DTNH hiện tại, NHNN cần xác định hai biến số còn lại có thể thay đổi trong năm kế hoạch là xác suất vỡ nợ quốc gia và chi phí cơ hội. Như vậy, dựa vào kế hoạch điều hành kinh tế trong năm kế hoạch của Chính phủ, NHNN cần thu thập và tính toán các dữ liệu kế hoạch liên quan đến việc xác định hai biến số này cho năm kế hoạch. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được. Với mô hình ước lượng mức DTNHTU và giá trị của các biến số đã được xác định cho năm kế hoạch, mức DTNHTU cho năm kế hoạch được ước lượng dễ dàng.

Việc ước lượng mức DTNHTU cho năm kế hoạch là nhằm mục đích giúp NHNN

nhận biết rõ:

171


Một là, không cần phải gia tăng thêm DTNH trong năm kế hoạch nếu mức DTNHTU tính được thấp hơn mức DTNH hiện có.

Hai là, ước tính được lượng ngoại hối cần dự trữ thêm cho năm kế hoạch nếu mức DTNHTU tính được cao hơn mức DTNH hiện có.

Với việc đã biết rõ trong năm kế hoạch có cần dự trữ thêm ngoại hối hay không và lượng ngoại hối dự trữ thêm nếu cần, NHNN nói riêng và Chính phủ nói chung sẽ có được những thuận lợi sau:

Thứ nhất, phân bổ hợp lý nguồn lực của quốc gia vào những hoạt động kinh tế-xã hội cần thiết để giúp thúc đẩy sự phát triển đất nước, không cần phải tập trung quá nhiều nguồn lực cho việc gia tăng DTNH nếu biết trước được lượng DTNH gia tăng thêm là không đáng kể hoặc không cần phải gia tăng DTNH trong năm kế hoạch.

Thứ hai, chủ động đưa ra kế hoạch gia tăng DTNH hợp lý trong năm kế hoạch với việc đã biết rõ lượng ngoại hối cần dự trữ thêm. Với tâm thế chủ động, kế hoạch gia tăng DTNH dễ dàng được hoạch định một cách có kiểm soát sao cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế Việt Nam và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế khi tiến hành gia tăng DTNH, không phải vội vàng đẩy nhanh tốc độ tăng DTNH.

5.3.3. Các gợi ý chính sách nhằm kiểm soát mức dự trữ ngoại hối tối ưu và gia

tăng dự trữ ngoại hối trong thời gian tới


Như kết quả nghiên cứu của phương pháp dựa theo chi phí – lợi ích của DTNH đã thể hiện, mức DTNHTU có mối quan hệ cùng chiều với chi phí tổn thất do vỡ nợ quốc gia và xác suất vỡ nợ quốc gia đồng thời có mối quan hệ ngược chiều với chi phí cơ hội và DTNHTT. Dựa trên kết quả này, tác giả đưa ra các gợi ý chính sách từ bốn biến số nói trên được sử dụng để ước lượng mức DTNHTU. Các gợi ý chính sách hướng đến kiểm soát mức DTNHTU và/ hoặc gia tăng DTNH thời gian tới.

5.3.3.1. Các gợi ý chính sách từ biến số xác suất vỡ nợ quốc gia


Theo kết quả nghiên cứu, xác suất vỡ nợ quốc gia có mối tương quan cùng chiều với mức DTNHTU. Như vậy, nếu muốn kiểm soát mức DTNHTU, không để tăng cao nhằm làm cho vấn đề gia tăng thêm DTNH không trở thành gánh nặng đối với NHNN, xác suất vỡ nợ quốc gia nhất thiết phải giảm xuống.

172


Bên cạnh đó, xác suất vỡ nợ quốc gia giảm đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư đánh giá tốt hơn về khả năng trả nợ của Việt Nam và xếp hạng tín nhiệm Việt Nam có thể được nâng bậc, chi phí vay vốn nước ngoài trên thị trường quốc tế sẽ rẻ hơn. Nguồn vốn giá rẻ sẽ là điều kiện tốt giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng mạnh hơn. Khi nền kinh tế phát triển tốt, Việt Nam lại có cơ sở để gia tăng thêm DTNH.

Tóm lại, giảm xác suất vỡ nợ quốc gia vừa có thể kiểm soát, không cho mức DTNHTU tăng cao đồng thời là điều kiện tốt để gia tăng thêm DTNH. Trong khi đó, như kết quả nghiên cứu thể hiện, xác suất vỡ nợ quốc gia được xác định dựa vào mô hình tính phí bù đắp rủi ro hay hàm f với mối quan hệ thuận chiều. Điều này đồng nghĩa xác suất vỡ nợ quốc gia cũng có mối tương quan cùng chiều với các biến số độ mở thương mại, tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn/ DTNH, tỷ lệ thâm hụt ngân sách/ GDP và có mối tương quan ngược chiều với biến số biến động vốn đầu tư gián tiếp trong mô hình tính phí bù đắp rủi ro. Do đó, muốn xác suất vỡ nợ giảm, cần tác động đến bốn biến số kể trên trong mô hình tính phí bù đắp rủi ro.

Đối với độ mở thương mại

Biến số này được đo bằng tỷ lệ nhập khẩu/ GDP và có mối tương quan cùng chiều với xác suất vỡ nợ quốc gia. Như thế, muốn kiểm soát xác suất vỡ nợ thì cần kiểm soát và tiết chế nhập khẩu, không cho tỷ lệ nhập khẩu/ GDP tăng cao. Để giảm bớt doanh số nhập khẩu nhưng vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển, Chính phủ cần thực hiện đồng bộ các chính sách:

Một là, ưu tiên cho nhập khẩu hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, hạn chế nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ làm tốn nhiều ngoại tệ của quốc gia bằng cách đánh thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt thật cao, đưa ra nhiều rào cản phi thuế quan hoặc không ưu tiên bán ngoại tệ cho việc nhập khẩu các mặt hàng này.

Hai là, đẩy mạnh chiến lược tuyên truyền “Người Việt dùng hàng Việt” để người tiêu dùng chuyển sang dùng hàng hóa Việt Nam, giảm bớt nhập khẩu. Song song đó, cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu mà trước đây trong nước chưa sản xuất được cũng như các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước để sản xuất hàng hóa, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

173


Ba là, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Thực tế cho thấy Việt Nam xuất khẩu nhiều thì cũng nhập khẩu nhiều nên lượng ngoại tệ thặng dư còn ít. Điều này là do Việt Nam chưa phát triển được ngành công nghiệp phụ trợ nên phải nhập khẩu hầu hết các nguyên, phụ liệu từ nước ngoài khi sản xuất hàng hóa, làm cho giá trị gia tăng khi xuất khẩu còn thấp đồng thời các doanh nghiệp trong nước còn bị lệ thuộc về nguyên phụ liệu với các doanh nghiệp nước ngoài. Như vậy, phát triển công nghiệp phụ trợ là điều hết sức cần thiết. Với tính chất mặt hàng phụ liệu không quá phức tạp và giá trị không lớn, khu vực kinh tế tư nhân rất thích hợp được lựa chọn để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Vì thế, Chính phủ cần có định hướng về các mặt hàng có thể phát triển trong ngành công nghiệp phụ trợ và có chính sách ưu đãi về vốn, về thuế, phí… đối với khu vực kinh tế tư nhân khi tham gia sản xuất các mặt hàng thuộc ngành công nghiệp phụ trợ đã được Chính phủ định hướng.

Đối với tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn/ DTNH

Biến số này cũng có mối tương quan cùng chiều với xác suất vỡ nợ quốc gia. Như thế, muốn kiểm soát xác suất vỡ nợ thì cần kiểm soát và không để nợ nước ngoài ngắn hạn tăng nhanh, trở thành gánh nặng cho DTNH để tài trợ trả nợ. Nợ nước ngoài ngắn hạn của Việt Nam chủ yếu đến từ các khoản nợ nước ngoài trung dài hạn nhưng đã gần thời điểm đáo hạn (từ 1 năm trở xuống) nên chuyển sang nợ nước ngoài ngắn hạn và các khoản nợ do Chính phủ bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng khi các tổ chức này vay nước ngoài ngắn hạn như hợp đồng nhập khẩu hàng hóa trả chậm, phát hành công cụ nợ ngắn hạn … Do đó, để kiểm soát nợ nước ngoài ngắn hạn, Chính phủ cần thực hiện các chính sách sau:

Một là, theo dõi thường xuyên các khoản nợ nước ngoài trung dài hạn và lập kế hoạch rõ ràng khi vay nợ trung dài hạn sao cho việc các khoản nợ trung dài hạn sắp đáo hạn để chuyển sang nợ nước ngoài ngắn hạn phải trả trong mỗi năm phải tương đối đồng đều hoặc tăng theo một tỷ lệ chấp nhận được đồng thời có thời hạn trả cách biệt nhau hợp lý trong cả năm, tránh tình trạng để nợ trung dài hạn khi chuyển sang nợ nước ngoài ngắn hạn bị dồn nhiều vào một năm hoặc chỉ vào một thời điểm trong năm bởi lẽ điều này sẽ làm tăng gánh nặng thanh khoản trả nợ của Việt Nam và gây áp lực lên DTNH, phát đi tín hiệu xấu về rủi ro vỡ nợ quốc gia. Như vậy, Bộ

Xem tất cả 313 trang.

Ngày đăng: 13/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí