Biểu Đồ Tăng Trưởng Thuê Bao Internet

cạnh tranh giữa gay gắt giữa các ba DN lớn này để tranh giành thị phần và thị trường. Và trong tương lai hứa hẹn sẽ có sự cạnh tranh khốc liệt hơn nữa bởi có nhiều DN mới đã nhảy vào ngành, đưa ra giá cướp hấp dẫn, chất lượng dịch vụ tốt…Do vậy đòi hỏi Viettel phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng.

Xét về nhu cầu ngành: Internet là một ngành có nhu cầu cao nhất từ trước tới nay, nhìn vào Hình 7: biểu đồ tăng trưởng thuê bao Internet thì có thể thấy rõ lượng nhu cầu sử dụng Internet ngày một lớn.

Hình 6 Biểu đồ tăng trưởng thuê bao Internet Nguồn 1

Hình 6: Biểu đồ tăng trưởng thuê bao Internet

(Nguồn: http://mic.gov.vn/vn/newsdetail/solieuthongke_vienthong/4682/index.mic) Năm 2003 mới chỉ có hơn 3 triệu người sử dụng Interet, nhưng đến năm

2009 thì con số này đã tăng hơn 7 lần tức là có hơn 22 triệu người dùng Internet. Mặt khác, với thị trường 86 triệu dân, tỷ lệ dân số trẻ là 60% dân số đang có nhu cầu dùng Internet tạo ra lượng cầu lớn và một thị trường rộng lớn sẽ là cơ hội cho Cty mở rộng hoạt động và chiếm lĩnh thị trường tiềm năng này. Đồng thời cũng tạo cơ hội cho các DN trong ngành tăng doanh thu và tăng tốc độ tăng trường, làm cho mức độ cạnh tranh bớt gay gắt. Tuy nhiên, nhu cầu Internet tăng cao làm cho ngành ngay trở nên rất hấp dẫn và như vậy sẽ có nhiều DN tham gia vào ngành. Từ đó sẽ làm cho mức độ cạnh tranh cao và đó là nguy cơ cho các DN trong ngành.

Xét về rào cản rút lui khỏi ngành: rào cản rút lui khỏi ngành Internet là khá cao bởi các nguyên nhân sau. Nguyên nhân thứ nhất: chi phí đầu tư vào ngành là rất lớn, các DN phải xây dựng và lắp đặt mạng lưới, mua tài sản cố định để cung cấp dịch vụ Internet là không nhỏ. Đồng thời chi phí đào tạo nguồn nhân lực, chi phí quảng cáo, chi phí xây dựng kênh phân phối cho ngành công nghệ cao Internet cũng rất lớn. Do vậy mà để rút lui khỏi ngành thì DN sẽ mất khoản chi phí khổng lồ ban đầu. Nguyên nhân thứ hai: phần lớn các DN này không chỉ kinh doanh mỗi dịch vụ Internet, mà có rất nhiều lĩnh vực kinh doanh khác ngoài Internet. Đó là các lĩnh vực về Viễn thông như điện thoại cố định và di động, về máy tính, điện…mà các lĩnh vực kinh doanh này có liên quan mật thiết với lĩnh vực Internet, chẳng hạn như dịch vụ Internet trên điện thoại di động. Hơn nữa, các đại lý, các mạng lưới phân phối rộng khắp của DN bao gồm cả dịch vụ về Viễn thông và Internet. Do vậy mà việc rút lui lĩnh vực Internet ra khỏi ngành sẽ có ảnh hưởng tới chiến lược tổng thể của DN, các dịch vụ Internet đi kèm Viễn thông, máy tính sẽ bị ảnh hưởng rất lớn nên việc rút lui khỏi ngành là không dễ dàng. Nguyên nhân thứ ba: về yếu tố tâm lý, hầu hết các DN như VNPT, Viettel hay FPT đều là các DN lớn, có tên tuổi trên thị thường Việt Nam. Do vậy để rút lui ra lĩnh vực Internet ra khỏi ngành sẽ làm giảm giá trị, uy tín của các nhà lãnh đạo trong nghiệp.

Tuy có nhiều đối thủ cùng tham gia cạnh tranh trong lĩnh vực Internet với Viettel, nhưng cho đến nay thì chỉ có VNPT và FPT là đối thủ chính. Các đối thủ như Netnam, EVN, SPT, hay HTC… cũng sẽ là đối thủ mà Viettel phải xem xét khi mà họ có đủ nguồn lực về tài chính, công nghệ và chất lượng dịch vụ. Trong bài phân tích này, tác giả sẽ phân tích hai đối thủ chính của Viettel trên thị trường hiện nay là VNPT và FPT.

(1) VNPT

Sản phẩm, dịch vụ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Dịch vụ cung cấp: là nhà cung cấp có đầy đủ nhất các loại hình dịch vụ về truy nhập, GTGT, đấu nối Internet; đã chuẩn bị các dịch vụ ứng dụng (OSP), đặc biệt các ứng dụng về nội dung thông tin; một số dịch vụ mới chuẩn bị chính thức

cung cấp: Internet không dây, VPN; chất lượng các dịch đang cung cấp không đồng đều, dịch vụ cùng loại kém FPT.

Thị trường cung cấp dịch vụ : 64 tỉnh thành, trong đó thị trường chính là Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.

Chính sách kinh doanh: phát triển diện rộng, chưa quan tâm nhiều đến hiệu quả (tài nguyên có sẵn, đầu tư ồ ạt...). Kinh doanh chưa định hướng khách hàng, chưa xây dựng được hình ảnh hoàn hảo trên thị trường. Chính sách giá chưa mềm dẻo, thường xảy ra xu hướng quá tải khi có tác động; hệ thống kênh phân phối chưa được quan tâm nên hoạt động kém hiệu quả: VNPT thực hiện chính sách phân phối thông qua hệ thống các tổng đại lý, đại lý và Bưu điện các tỉnh; tổng đại lý của các ISP chỉ chủ yếu là nhà phân phối thẻ và các đại lý chủ yếu phát triển các loại dịch vụ gia tăng cho VNPT; các chính sách đại lý của VNPT thường ít được điều chỉnh, do vậy không gây được thiện cảm từ phía các nhà trung gian. Đã quan tâm tới các chính sách marketing nhưng việc thực hiện chưa ráo riết và thiếu tính đồng bộ, hiện tại VNPT thực hiện quảng cáo trên báo chí là chính nhưng rất rời rạc, ngoài ra có kết hợp quảng cáo trên truyền hình, tuy nhiên tần suất quảng cáo chưa nhiều và chủ yếu là được kết hợp trong các chương trình quảng cáo trên kênh truyền hình VTV1, VTV3; các đầu báo chủ yếu VNPT phát hành: Báo Bưu điện Việt Nam, PC World, Thời báo kinh tế, Báo Hà nội mới, Sài gòn giải phóng, Echip, Tuổi trẻ, Thể thao văn hoá…Với tần suất không lớn nhưng được đăng khá thường xuyên các tháng. Quảng cáo thường gắn với việc thông báo khuyến mại, một số quảng cáo truyền hình nhằm giới thiệu dịch vụ mới. Các hình thức quảng cáo khác như quảng cáo ngoài trời qua pano, áp phích và tham gia các hoạt động tài trợ triển lãm đã bắt đầu được quan tâm, và với tiềm lực của VNPT gần đây họ đã tổ chức và tham gia khá nhiều sự kiện viễn thông.

Tổ chức, đào tạo đội ngũ: đội ngũ được đào tạo bài bản về kỹ thuật và kinh doanh, chính sách thải loại người yếu và tuyển dụng người giỏi chưa được chú trọng, cơ cấu tổ chức cồng kềnh, lòng say mê và nhiệt tình của đội không cao.

Hạ tầng: mạnh, rộng nhưng không đồng đều, thiếu đồng bộ, có khả năng

triển khai hạ tầng mạnh trên diện rộng.

Quy mô và hướng đầu tư: đầu tư diện rộng, ồ ạt nhưng thiếu hiệu quả. Một số nơi dung lượng thiết bị đầu tư vượt nhiều nhu cầu hiện tại, được Tổng Cty hỗ trợ lớn trong quá trình đầu tư. Đầu tư với xu hướng thực hiện chính sách hơn là kinh doanh.

Công nghệ: đã triển khai xong Internet pha 4, các tỉnh đều có POP, ứng dụng các công nghệ hiện đại để thay thế dần hạ tầng cũ, định hướng phát triển mạnh Internet băng rộng và các dịch vụ gia tăng đa chức năng.

Đánh giá chung: hoạt động có tăng trưởng nhưng không nhanh chưa tương ứng với tiềm lực và đầu tư, được Tổng Cty hỗ trợ lớn về nhiều mặt. Với tiềm lực hiện nay VNPT là đối thủ số 1 của các DN mới mà Viettel cần tìm một cách đi riêng cho mình để tránh sức ép cạnh tranh.

(2) FPT

Sản phẩm dịch vụ

Dịch vụ cung cấp: đầy đủ các loại hình dịch vụ về truy nhập, GTGT, đấu nối Internet. Bắt đầu cung cấp dịch vụ ứng dụng (OSP) đặc biệt các ứng dụng về nội dung thông tin. Chất lượng các dịch vụ đang được đánh giá là tốt nhất trên thị trường.

Thị trường cung cấp dịch vụ : Hà Nội, Hồ Chí Minh và đang bắt đầu triển khai kinh doanh tại Đà Nẵng

Chính sách kinh doanh: phát triển tập trung, chú trọng đến hiệu quả. Kinh doanh định hướng khách hàng, xây dựng được hình ảnh tốt trên thị trường. Chính sách marketing ráo riết. Đặc biệt quan tâm tới các hình thức khuyến mại cáo cho dịch vụ và các hình thức quảng cáo trên báo chí, khuếch trương cho hệ thống đại lý rộng rãi. Các đầu báo chủ yếu: Thời báo kinh tế Việt Nam, Thời báo kinh tế SàiGòn, Việt Nam New, Hà Nội mới, Tuổi trẻ, Văn hoá thể thao, Sài gòn Giải phóng, Đầu tư, Lao động, Thanh niên….Chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt, có sự đổi mới và thường đưa ra những hình thức ưu đãi hấp dẫn cho khách hàng.

Hệ thống kênh phân phối được đặc biệt quan tâm nên họat động rất hiệu quả đặc biệt với chính sách đại lý hấp dẫn: FPT thực hiện việc phân phối thông qua hệ

thống Tổng đại lý và đại lý để phát triển dịch vụ. Tuy nhiên các tổng đại lý, đại lý

của FPT chủ yếu là phát triển thẻ và các dịch vụ gia tăng. FPT được đánh giá là nhà cung cấp có số lượng lớn đại lý bán thẻ tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, với mục tiêu chủ yếu tập trung đại lý vào phát triển thẻ.

Tổ chức, đào tạo đội ngũ: đội ngũ được đào tạo bài bản về kỹ thuật và kinh doanh. Phát huy tối đa trong kinh doanh để mang lại hiệu quả. Các nhân viên FPT có trình độ học thức cao: 3.2% trên đại học, 83.3% tốt nghiệp đại học và 13.5% tốt nghiệp phổ thông trung học. FPT là một trong những Cty có độ tuổi trung bình nhân viên trẻ ở Việt Nam 28,4. Chính sách thải loại người yếu (10%/năm) và tuyển dụng người giỏi rất được chú trọng. Bộ máy gọn nhẹ, tổ chức hoạt động hiệu quả. Sử dụng nhiều công cụ kích thích vật chất và tinh thần để tạo động lực trong lao động.

Hạ tầng: không có hạ tầng truyền dẫn, do vậy phải đi thuê của VNPT và Viettel. Hạ tầng cung cấp dịch vụ tốt, tập trung, không dàn trải. Luôn được nâng cấp và mở rộng. Đang tiếp tục mở rộng hạ tầng cung cấp dịch vụ tại các tỉnh thành phố tiềm năng.

Quy mô và hướng đầu tư: đầu tư tập trung vào các khu vực có hiệu quả, tiết kiệm, không mang màu sắc chính sách. Đầu tư nhanh các dịch vụ mang lại lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh.

Công nghệ: tiếp cận nhanh với công nghệ, ứng dụng nhanh để thu lợi trong kinh doanh. Sử dụng các công nghệ với tính năng phù hợp, chi phí thấp.

Đánh giá chung: tăng trưởng nhanh, hoạt động hiệu quả trên các thị trường. Hoạt động kinh doanh linh hoạt, chấp nhận rủi ro, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Với tiềm lực hiện nay FPT là một đối thủ lớn nên Viettel cần học tập trên nhiều phương diện đặc biệt là về giải pháp công nghệ và kinh doanh tìm kiếm hình thức hợp tác để tăng sức cạnh tranh với VNPT.

FPT thực sự mạnh về tư duy kinh doanh, phong cách cũng như những hiểu biết sâu sắc trong kinh doanh dịch vụ Internet. Ứng dụng công nghệ mới để cũng như phong cách làm ăn mới để tạo lợi thế cạnh tranh. Đây là một đối thủ Viettel cần học tập và biến thành khách hàng lớn.

(3) Các DN mới ra nhập thị trường

Hiện nay đang có nhiều DN họat động kinh doanh về Internet trong đó: EVNtelecom, SPT, HTC là các DN có định hướng lớn cho kinh doanh Internet. Riêng HTC đã cung cấp dịch vụ tuy nhiên đây mới được xem là giai đoạn khởi đầu, chưa có ảnh hưởng đến thị trường. Với SPT và EVN là nhà cung cấp dịch vụ có lợi thế rất lớn về hạ tầng và khả năng tài chính cũng như có những ý tưởng táo bạo trong kinh doanh là đối thủ đáng gờm của các nhà cung cấp dịch vụ.

b. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn

Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các DN có khả năng tham gia cạnh tranh trong ngành nếu họ gia nhập ngành. Để tìm hiểu và phân tích đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn tác giả sẽ phân tích rào cản gia nhập ngành, và khả năng phản ứng của các DN trong ngành.

Về rào cản gia nhập ngành bao gồm: rào cản về tài chính, rào cản thương mại, rào cản về thương hiệu. Rào cản về tài chính là rào cản khá cao bởi các DN mới muốn gia nhập ngành đòi hỏi phải bỏ một khoản tiền khổng lồ cho xây dựng hạ tầng mạng cơ bản. Trong khi các DN hiện tại trong ngành đã có được cơ sở hạ tầng khá vững mạnh và khải khắp 3 miền Bắc – Trung – Nam, do vậy đây thực sự là một rào cản đối với các DN chưa có hạ tầng mạng. Rào cản về thương mại là khả năng tiếp cận kênh phân phối đối với các DN mới muốn gia nhập ngành, họ sẽ phải bỏ ra khoản đầu tư ban đầu lớn mới có thể xây dựng được mạng lưới kênh phân phối đủ mạnh. Còn các DN trong ngành đã có mạng lưới kênh phân phối rộng khắp cả trong và ngoài nước, chính vì vậy mà khả năng tiếp cận với khách hàng là rất lớn. Do đó khả năng tiếp cận với khách hàng của các DN là rất khó nếu họ chưa xây dựng được mạng lưới kênh phân phối. Rào cản thứ ba là rào cản về mặt tên tuổi và thương hiệu, các DN như Viettel, VNPT, hay FPT là những DN có tiếng trên thị trường Việt Nam mà bất cứ người dân nào cũng biết thậm chí họ chưa sử dụng dịch vụ của các DN này. Vì vậy khách hàng sẽ ưu tiên lựa chọn các DN có tiếng và tên tuổi này chứ họ sẽ không lựa chọn một DN không có tên tuổi hay DN mà họ chưa từng nghe đến.

Về khả năng phản ứng của các DN trong ngành: các DN trong ngành có một

số DN lớn chi phối toàn ngành đã bắt tay nhau để tiến tới thành lập Hiệp hội

Internet Việt Nam được ký kết bởi 5 ISP gồm: EVN Telecom, Viettel Telecom, SPT, VNPT và Cty NetNam. Mục tiêu của sự kiện này là nhằm nâng cao chất lượng mạng, tạo môi trường thúc đẩy kinh doanh lĩnh vực này và các dịch vụ giá trị gia tăng trên nền Internet. Từ đó kích cầu các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, gia nhập thị trường quốc tế, hoạt động công ích, phổ cập Internet cho các vùng sâu, đồng thời ngăn cản sự gia nhập của đối thủ tiềm ẩn. Họ bắt tay để xây dựng chất lượng dịch vụ Internet hàng đầu, phát triển nội dung và dịch vụ giá trị gia tăng trên nền Internet. Từ đó xây dựng rào cản về chất lượng và số lượng dịch vụ, nhằm ngăn cản sự gia nhập của các đối thủ mới.

Tuy nhiên các DN Internet trong ngành sẽ gặp phải khó khăn khi các Cty Truyền thông lấn sân sang Viễn thông và Internet: kế hoạch truy cập Internet qua mạng cáp truyền hình (với ưu thế về băng rộng). Với sự phát triển của công nghệ, các DN viễn thông - công nghệ thông tin và truyền thông của Việt Nam bắt đầu trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau. Việc truy cập Internet qua mạng cáp truyền hình có thể đạt tốc độ tải về tới 54 Mbps và tải lên 10 Mbps. Đồng thời, thông qua hệ thống đường truyền này, ngoài truyền hình và Internet, khách hàng còn có thể tiếp cận nhiều dịch vụ giải trí khác như chơi game online, xem ti vi trên máy vi tính, xem truyền hình và phim theo yêu cầu...

Ngoài ra thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất háo hức tham gia vào thị trường Viễn thông – Internet Việt Nam, do thị thường Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng, và với tốc độ phát triển nhanh của ngành thì không có lý do gì các nhà đầu tư nước ngoài không để ý đến thị trường Việt Nam.

c. Áp lực từ khách hàng

Khách hàng là những DN hay người mua sản phẩm của DN. Để tìm ra được cơ hội và thách thức, tác giả sẽ phân tích áp lực của khách hàng đối với DN.

Trên thị trường Internet Việt Nam thì hiện nay có rất nhiều nhà cung cấp, vì vậy khách hàng dễ dàng lựa chọn nhà cung cấp phù hợp với nhu cầu của mình nhất. Do vậy mà DN không có bất kì sức ép nào lên khách hàng, khách hàng có nhiều lựa chọn DN cung cấp cho mình. Tuy nhiên, số lượng khách hàng lại rất lớn (với dân số

86 triệu người mà mới có 3 triệu thuê bao Internet tương ứng với 22,9 triệu người

sử dụng) thì số lượng khách hàng chưa sử dụng dịch vụ là rất lớn. Vì vậy mà DN thường không lo sợ khi số lượng khách hàng còn rất lớn. Hơn nữa, khách hàng cũng khó có cơ hội hội nhập dọc về phía sau là do chi phí đầu tư cho hạ tầng mạng là rất lớn, thêm vào đó họ phải tìm nhà cung cấp để lắp đặt, đồng thời phải bỏ ra cả chi phí đào tạo nếu họ muốn sử dụng. Trừ khi họ muốn gia nhập vào ngành Internet, còn không thì khách hàng đe dọa hội nhập dọc về phía sau là không có. Tuy nhiên tên tuổi của DN trên thị trường cũng tạo nên ảnh hưởng đối với khách hàng, họ tin tưởng vào DN có tiếng trên thị trường, có tiềm lực về tài chính và có chất lượng dịch vụ tốt. Tuy Viettel là một DN mạnh, có tiếng trên thị trường nhưng khách hàng chủ yếu biết đó là một DN mạnh về mảng Viễn thông với: số lượng thuê bao di động lớn nhất, có vùng phủ sóng rộng nhất, có giá cước cạnh tranh nhất, có những gói cước hấp dẫn, và có chính sách khách hàng tốt. Còn về lĩnh vực Internet thì lại rất ít khách hàng biết đến và sử dụng.

Sau đây tác giả sẽ đi phân tích cụ thể từng gói cước Internet dành cho khách

hàng:

Khách hàng truy nhập băng rộng (Leased Line, WI FI và ADSL)

Trước đây các khách hàng sử dụng băng thông rộng chủ yếu là các tổ chức: DN, cơ quan, Trường học. Loại hình dịch vụ này chưa phù hợp với người dùng cá nhân, do chi phí lớn.

Kể từ năm 2004 số người sử dụng Internet băng thông rộng (ADSL) bao gồm cả các cá nhân các hộ gia đình chứ không cứ các DN hay các cơ quan, trường học, chi phí cho dịch vụ Internet tốc độ cao ADSL đã giảm đáng kể giảm khoảng 60 đến 80% trên 1 Mb/s

Các khách hàng sử dụng dịch vụ này chủ yếu quan tâm đến chất lượng dịch vụ, họ chỉ rời nhà cung cấp khi chất lượng không đảm bảo hoặc giá quá cao

Khách hàng sử dụng dịch vụ đấu nối Internet (IXP)

Hiện nay các khách hàng là các ISP mới, ISP dùng riêng với dung lượng sử dụng hiện nhỏ. Tuy nhiên trong tương lai dung lượng này sẽ tiếp tục tăng.

Khách hàng sử dụng dịch vụ ứng dụng (các dịch vụ gia tăng)

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 15/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí