viên sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, làm giảm lòng tin trong nhân dân. Vì vậy, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân” xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng hiện nay chính là luôn trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức cảnh giác, tinh thần trách nhiệm cao, chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Người đã dạy: Mỗi người có ba trách nhiệm trước Đảng, trước dân, trước công việc. Trong đó, trước hết cần có ý thức trách nhiệm cao trước công việc, trước nhân dân làm cho thật tốt rồi đem kết quả đó báo cáo với Đảng, với cấp trên. Theo Người, xây dựng Tổ quốc là một cuộc chiến đấu khổng lồ cần phải dựa vào sức mạnh của nhân dân, sự nghiệp xây dựng Tổ quốc muốn thành công thì nhân tố hàng đầu là phải phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tập thể, đẩy mạnh tu dưỡng rèn luyện ĐĐCM, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, cục bộ địa phương. Đó là tinh thần trách nhiệm, ý thức chính trị của chúng ta trước yêu cầu mới của cách mạng. Đồng thời, phải đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức có phẩm chất ĐĐCM, trong giai đoạn cách mạng mới, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh vĩ đại là lãnh đạo nhân dân, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Đây là mục đích cao cả, lợi ích thiêng liêng của Đảng và của nhân dân ta.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải theo đạo đức công dân, đó là tuân theo pháp luật của Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung. Phục vụ nhân dân trên cơ sở nhân dân là chủ, dân làm chủ. Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng ấy là của nhân dân, nhân dân là sức mạnh vô địch.
Người còn chỉ rõ, ý thức trách nhiệm của mỗi người trước hết thể hiện trong quan hệ với nhiệm vụ được giao và công việc phải làm, ý thức trách nhiệm còn được biểu hiện trong việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, của Chính phủ, thực hiện đúng đường lối quần chúng, không quan liêu mệnh lệnh chủ quan. Hồ Chí Minh chỉ rõ, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết, luôn quan tâm chăm lo mọi mặt
đời sống nhân dân, làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành, luôn tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, vì dân mà làm việc. Tôn trọng dân, trước hết là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng ý kiến của dân, không tự cao, tự đại, khinh rẻ dân, chê bai dân, hướng dẫn dân tăng gia sản xuất chăm lo đời sống, thực hành tiết kiệm… phải luôn quán triệt “làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải là ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được” [18, tr. 516]. Phục vụ nhân dân là, tự phê bình trước dân và nếu có khuyết điểm thì nhận, đồng thời hoan nghênh nhân dân phê bình mình.
Tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trong TTHCM rộng lớn sâu sắc, trước hết là nhận thức về Tổ quốc về nhân dân, vị trí vai trò của cán bộ đảng viên. Nhận thức đúng sẽ mở đường cho hành động đúng, nhận thức sai là hành động sai. Điểm cốt lõi về vấn đề này trong TTHCM chính là: Dân là chủ, là gốc của nước, có dân là có tất cả, cán bộ là đầy tớ của dân. Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là nhiệm vụ của mọi CBCC là gốc của mọi công việc. Cán bộ, đảng viên phải là tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
- Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [16, tr.161]. Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta:
Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời [18, tr.558].
Có thể bạn quan tâm!
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ - 1
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ - 2
- Khái Niệm Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đạo Đức Cán Bộ
- Tiếp Thu Tinh Hoa Tư Tưởng Đạo Đức Của Nhân Loại
- Pháp Luật Góp Phần Bảo Vệ, Củng Cố Các Giá Trị Đạo Đức Xã Hội
- Thực Trạng Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đạo Đức Cán Bộ
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người”. Về chữ nhân, Người cho rằng, nhân là “thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà cương quyết chống lại những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân” [12, tr.252-253]. Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong QHXH. Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người. Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác-Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin được” [20, tr.640].
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Là phẩm chất đạo đức cơ bản, được Hồ Chí Minh đề cập thường xuyên vì nó gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người cách mạng và quan hệ mật thiết với phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân”. Đây là một phẩm chất đạo đức nữa luôn gắn liền với những hoạt động hàng ngày của Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn được đề cập nhiều nhất, thường xuyên. Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người chỉ ra rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực hiện. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân noi theo. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Quán triệt lời dạy của Bác, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, người cán bộ, lãnh đạo, Đảng viên cũng phải thực hiện “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, tính siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta". Bác nhấn mạnh, những cán bộ lười biếng, không siêng năng chăm chỉ ấy, chính là những người đang “lừa gạt dân”. Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; không lãng phí thời gian, của cải của mình và của dân "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Từ lý giải này của Bác, có thể hiểu Kiệm không chỉ có nghĩa là tiết kiệm tiền của, mà quan trọng hơn, đó là tiết kiệm thời gian, công sức. Đồng thời, không chỉ là tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức của bản thân mình, mà còn là tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức của người khác. Như vậy, chữ Kiệm Bác nói khá toàn diện: tiết kiệm thời gian, tiết kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu
dùng; tiết kiệm ở cả xã hội và ở mỗi cá nhân. Bác cũng nói rõ: tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải là gặp việc gì đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Khi có việc đáng làm, việc có ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là kiệm.
Cần, Kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, của người cán bộ trong công tác.
Liêm là trong sạch, tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của nhân dân. Phải "trong sạch, không tham lam"; "không tham địa vị, không tham tiền tài…. không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa". Bác cho rằng: “cán bộ cơ quan, đoàn thể cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của nhân dân”. Như vậy, theo Bác, những cán bộ làm trong bộ máy nhà nước rất dễ có cơ hội để tham ô, tham nhũng. Đó là khi họ nắm trong tay quyền hành nhưng “thiếu lương tâm”, không giữ được chữ cần, kiệm, liêm, chính. Người cán bộ phải thực sự rũ bỏ lòng tham, không chỉ đối với tiền bạc vật chất mà cả với những danh vọng, địa vị, chức tước. Những tiền tài và danh vọng đó có sức quyến rũ vô cùng mạnh mẽ. Nằm trong bộ máy nhà nước, nắm trong tay quyền lực, người cán bộ rất dễ bị những cám dỗ đó lôi kéo. Và khi quyền lực kết hợp với lòng tham, thì từ người cán bộ bỗng trở thành con mọt đục khoét của công, hay trở thành ông quan cách mạng, chỉ là trong gang tấc. Do đó, đối với người cán bộ, thực hiện chữ Liêm là vô cùng cần thiết, mặc dù rất khó khăn. Nhưng dù khó khăn đến mấy, cũng phải “lấy Liêm làm đầu”. Liêm đã trở thành thước đo bản chất người, bản chất cách mạng của người cán bộ.
Chính là ngay thẳng, thấy phải dù nhỏ cũng phải làm; thấy trái dù nhỏ cũng phải tránh; “không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa
đổi điều dở của bản thân mình; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh” [16, tr. 55]. Khi nói tới Chính, trước hết phải lấy mình làm đối tượng. Bác dặn người cán bộ:
Mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bổ họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình [12, tr.252-253].
Liêm, Chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức. Bốn đức tính này trở thành nền tảng cơ bản để trở thành một con người có đạo đức, cơ bản đến mức, “thiếu một đức thì không thành người”. Đây là những đức tính mà bản thân mỗi CBCC lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt động. Nội dung cụ thể của bốn chữ này áp dụng cho đội ngũ công chức được Bác diễn giải hết sức dễ hiểu và thấu đáo. Mặc dù sử dụng khái niệm của Nho giáo nhưng cách nói của Bác rất cụ thể và gần gũi với người cán bộ.
Chí công, vô tư: chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc. Ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị công danh phú quý. Khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đến sau. Chí công vô tư là chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà; chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình (chí công vô tư không phải là không chăm lo lợi ích riêng. Bác chỉ yêu cầu trong quan hệ lợi ích chung-riêng cần hài hòa. Nghĩ đến lợi ích riêng nhưng cần ưu tiên lợi ích chung. Hồ Chí Minh phê phán chủ nghĩa cá nhân nhưng yêu cầu giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân và xã hội, không trù dập lợi ích cá nhân, phải tôn trọng và phát triển cá nhân để chống chủ nghĩa cá nhân). Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Như vậy, các phạm trù đạo đức của học thuyết Nho giáo đã được Hồ Chủ tịch vận dụng tiếp thu và phát triển, mở rộng nội dung, mang tính giai cấp, tính nhân và tính chiến đấu để trở thành những phạm trù đạo đức cách mạng. Nội dung của đạo đức cách mạng là một sự phát triển mới và là sự khác biệt về chất so với đạo đức phong kiến, như Người đã khẳng định: “đó không phải là những đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [27, tr.251 – 252].
- Tinh thần quốc tế trong sáng
TTHCM là sự thống nhất, hoà quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong TTHCM rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự thương yêu, tôn trọng tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp
bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và CNXH, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ
1.2.1. Kế thừa giá trị tư tưởng đạo đức của dân tộc
Nước ta có một bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước nên những giá trị truyền thống rất đặc sắc và cao quý. Đó là truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, tinh thần tương thân, tương ái, lòng nhân nghĩa, ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách, thông minh, sáng tạo….
Yêu nước chính là giá trị chủ đạo, cao quý thiêng liêng, là cội nguồn của các giá trị khác đồng thời cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc.
Khi Người lớn lên trong một gia đình nho giáo, có truyền thống yêu nước, gần gũi với nhân dân. Thân sinh của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, cụ là nhà nho cấp tiến có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng lấy dân