Rà Soát, Hoàn Thiện Chính Sách, Pháp Luật Về Cán Bộ Để Xác Định Nội Dung Cần Sửa Đổi, Bổ Sung, Cụ Thể Hóa Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh

sự ngăn cách, khâu trung gian nào. Hình thức, biện pháp, công cụ tuyên truyền rất đa dạng và uyển chuyển. Nó có thể thực thi đối với mọi đối tượng, ở nhiều địa điểm và thời gian khác nhau. Từ lợi thế đó, để chuyển tải nội dung TTHCM về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý, chúng ta có thể áp dụng các hình thức đa dạng: mở lớp, hội thảo, tham quan bảo tàng và các di tích lịch sử cách mạng, thuyết trình; sử dụng các phương tiện đa dạng: phim ảnh và các phương tiện trực quan, tài liệu viết, v.v.... Về phương pháp, cần tăng cường giao tiếp và đối thoại, thông tin hai chiều, tăng cường sự gắn bó giữa người tuyên truyền truyền giáo dục và đối tượng được tuyên truyền giáo dục.

2.2.2.2. Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về cán bộ để xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin trong nhiều trước tác của mình đã từng nêu cao vai trò của cán bộ, xem cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Đến lượt mình, luôn nắm chắc các quan điểm đó, đặc biệt là những tư tưởng chỉ đạo của Lênin về sự cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, có bản lĩnh như là vấn đề then chốt trong tiến trình cách mạng, "Hồ Chí Minh đã làm cho tư tưởng đó có được nội dung cụ thể, sống động và thuyết phục" [31, tr.256] ở chỗ người cán bộ có vai trò quyết định trong hình thành đường lối, chủ trương của Đảng, Chính phủ, rồi lại chỉ đạo, thi hành nó. Tư tưởng về vai trò đó của người cán bộ vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Tư tưởng đó không chỉ cần có cơ sở lý luận, được chứng minh trong thực tiễn đã là đủ, mà còn cần được khẳng định và bảo đảm bởi những cơ sở pháp lý nhất định. Đó là việc phản ánh nó trong pháp luật của Nhà nước, đồng nghĩa với yêu cầu, đòi hỏi một hệ thống thể chế pháp luật CBCC một cách rõ ràng, đầy đủ. Một hệ thống thể chế pháp luật như thế càng là điều kiện chỉ ra và thấy rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của CBCC, là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ CBCC trong sạch, vững mạnh, cũng chính là một trong những điều toát lên một cách đầy đủ rằng "cán bộ là gốc của mọi công việc". Chính vì vậy, ngay trong những năm kháng chiến chống Pháp,

Hồ Chí Minh đã quan tâm tới vấn đề này, trực tiếp ký một số sắc lệnh điều chỉnh về lĩnh vực CBCC. Có thể coi đó là nền móng đầu tiên của thể chế pháp luật CBCC ở nước ta.

Lý do cần có sự phân biệt rõ ràng chức năng nhiệm vụ của CBCC bởi mỗi đối tượng trong phạm vi CBCC nói chung có đặc điểm và tính chất hoạt động khác nhau, mang tính riêng biệt. Vấn đề nay, ngay trong Chiến lược ổn định và phát triển KT-XH năm 1991 của Đảng đã chỉ ra: "Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù hợp với chế độ mới. Phân định rõ cán bộ dân cử hoạt động theo nhiệm kỳ và các loại công chức, viên chức chuyên nghiệp" [21, tr.480]. Điều này, cho đến nay, trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức 1998 đã qua 2 lần sửa đổi, bổ sung vẫn chưa được làm rõ.

Vấn đề đặt ra là các đối tượng trên cần được điều chỉnh chung trong một luật hay xây dựng thành nhiều luật. Trước nhu cầu bức thiết về hoàn thiện pháp luật CBCC hiện nay, nhiều ý kiến đặt vấn đề cần xây dựng luật công chức độc lập, và gắn với đó là luật về công vụ; mà rất ít ý kiến đề cập xây dựng luật cho đối tượng là cán bộ, viên chức. Ngay trong Nghị quyết số 48 kể trên của Bộ chính trị khóa IX cũng đặt riêng vấn đề là phải "ban hành luật về công vụ, công chức". Lẽ dĩ nhiên, điều này hợp lý ở chỗ là hoạt động của đội ngũ viên chức gần gũi với các quan hệ theo luật lao động; và bộ phận còn lại thì chịu sự điều chỉnh của các luật, quy định về bầu cử, ứng cử. Tuy nhiên, ở nước ta có điều kiện đặc thù là hoạt động của hệ thống chính trị nói chung cùng đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Vì vậy, các đối tượng CBCC, viên chức dù có tính chất riêng biệt, nhưng lại nằm trong mối quan hệ đan xem mật thiết với nhau. Cùng một đối tượng con ngươi, lúc này có thể là cán bộ, lúc khác lại có thể trở thành công chức hành chính, hoặc viên chức sự nghiệp. Đó là do công tác luân chuyển cán bộ, một chủ trương lớn hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. Hơn nữa, một truyền thống cố hữu lâu nay ở nước ta khó thay đổi trong một sớm, một chiều trong cách hiểu và cách nghĩ đối với CBCC hay viên chức đều có điểm chung là "trong biên chế nhà nước". Vì vậy, việc xây dựng và ban hành luật về CBCC chung, ở đó có chia thành các phần phân biệt và quy định cho từng đối tượng riêng cụ thể sẽ như là một giải pháp hợp

lý. Có như vậy mới tạo được sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống thể chế pháp luật CBCC trên cái nền đặc thù của nước ta hiện nay.

Một điểm nữa, pháp luật CBCC chưa thể coi là hoàn thiện nếu thiếu một bộ phận có liên quan mật thiết. Đó là luật về công vụ. Vì vậy, cũng rất cần thiết phải xây dựng luật hoặc quy chế về hoạt động công vụ để phân định rõ hoạt động của đội ngũ CBCC với các quan hệ lao động khác.

Tóm lại, xây dựng luật CBCC hoàn chỉnh, ở đó phản ánh đầy đủ TTHCM về đạo đức cán bộ phù hợp với thời kỳ mới là điều kiện pháp lý quan trọng để hình thành đội ngũ CBCC vững mạnh, thấy rõ vị trí,vai trò của CBCC, đó thực sự là gốc của mọi công việc, cũng như thấy rõ tầm quan trọng của đội ngũ CBCC trong bộ máy nhà nước. Đồng thời qua đó tạo cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ CBCC, bảo đảm đó là những hoạt động tận tụy phục vụ nhân dân, thể hiện rõ CBCC đúng là công bộc của nhân dân.

2.2.2.3. Kết hợp giữa giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng với tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

Nét đặc sắc trong tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật và về quản lý xã hội là tinh thần kết hợp đạo đức và pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đôi với không ngừng tăng cường vai trò, sức mạnh của luật pháp. Tư tưởng và tấm gương mẫu mực về sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong QLXH. Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người như thế ở tính kế thừa những tinh hoa quản lý đất nước của loài người, và hơn thế ở tính sáng tạo độc đáo, riêng có của Người. Người là mẫu mực của sự chú trọng giáo dục đạo đức và cũng không ngừng tăng cường vai trò của pháp luật. Tinh thần và phương pháp xuyên suốt và nhất quán trong TTHCM về QLNN, QLXH là sự kết hợp hài hòa đạo đức và pháp luật. Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó nhằm biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu, càng rộng, thậm chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy

nhiêu. Có lẽ, cũng do vậy, pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được coi là pháp luật tối đa. Tìm được những điểm tương giao trong mối quan hệ qua lại giữa đạo đức và pháp luật để kết hợp và xử lý vấn đề; đó cũng là nét rất tinh tế, độc đáo ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay, cần tăng cường giáo dục đạo đức, nâng cao hiệu lực pháp luật trong QLXH theo TTHCM. Bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp. Xã hội chúng ta chưa đạt tới một trình độ xã hội công nghiệp hiện đại. Tâm lý, nếp sống của người sản xuất nhỏ vẫn còn khá phổ biến. Đây đó, dấu ấn phong kiến vẫn còn" phép vua thua lệ làng", nặng về hình, nhẹ về luật nên ý thức tôn trọng luật và sống theo luật cũng chưa trở thành thói quen, nền nếp. Vì thế,"nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt" [4]. Đặc biệt, "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả"(5). Trong khi đó, việc xây dựng và thực hiện pháp luật tuy phần nào đã đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển nhưng cũng có tình hình vừa thừa vừa thiếu. Luật ban hành nhiều nhưng chưa đủ, thiếu đồng bộ, chưa bao quát được mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung luật pháp còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, chất lượng thấp. Đặc biệt việc tổ chức thực hiện pháp luật kém, thi hành luật không nghiêm, có nhiều sai phạm cả cố ý và vô ý; hoặc trong một số trường hợp có luật nhưng không được thực thi (chẳng hạn Luật An toàn giao thông). Pháp luật nước ta chưa làm tròn chức năng răn đe, ngăn ngừa, "phòng bệnh" mà phần lớn chỉ sử dụng như một công cụ để xử lý vi phạm. Trước thực trạng ấy, chúng ta tìm thấy trong TTHCM những giá trị hàm chứa ở tinh thần, phương pháp, nguyên tắc (xây dựng), ở những hạt nhân hợp lý trong rất nhiều nội dung vừa cơ bản vừa cụ thể và nóng hổi tính thời sự. Biết rõ khi có Nhà nước, cần phải đề phòng những khuyết tật nảy sinh như là một thuộc tính của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng sự quan tâm, giáo dục của Người vào những cán bộ có chức, có quyền mắc những căn bệnh như trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí... Người đòi hỏi cán bộ phải: cần kiệm

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ - 12

liêm chính, chí công vô tư, và ghi sâu những chữ "công bình, chính trực" vào lòng. Người biểu dương những cán bộ tốt và cũng tỏ thái độ rất nghiêm khắc với những tệ nạn như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí. Người nhấn mạnh: "Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung"[3]. Và vụ án Trần Dụ Châu là một minh chứng cho điều ấy. Có thể khẳng định: mặc dù luôn đề cao giáo dục đạo đức nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không ngừng tăng cường sức mạnh pháp luật. Theo Người, nếu chỉ đơn thuần giáo dục đạo đức thì không thể giải quyết được tệ nạn xã hội. Ví như tệ tham nhũng - một căn bệnh vốn xuất hiện từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và tầng lớp cầm quyền; nếu chỉ đơn thuần kêu gọi đạo đức thì không thể giải quyết được tệ nạn này. Hồ Chí Minh yêu cầu: Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Mỗi người phải nhận rằng, tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân; phải nghiêm trị. Người viết nhiều bài trên báo Cứu quốc với bút danh Chiến Thắng, thường xuyên phê bình, nhắc nhở cán bộ phải nhớ rằng mình là đầy tớ dân chứ không phải những ông quan cách mạng, phải chống chuyên quyền, độc đoán, dĩ công, dinh tư.

Vì vậy, vận dụng và phát triển sáng tạo những di sản tư tưởng quý giá của Chủ tịch hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu như sau:

Thứ nhất, cần nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò của đạo đức, pháp luật và sự kết hợp giữa chúng trong quản lý xã hội. Phát huy vai trò của đạo đức gắn kết với pháp luật chính là một trong những phương cách tốt nhất để tăng thêm sức mạnh, khắc phục những điểm yếu, những hạn chế nội tại, nhân thân của đạo đức và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Điều quan trọng và có ích chính là ở chỗ, con người không chỉ nuôi lớn những khát vọng mà còn cần cảm nhận thực tế và có động lực để thực hành một nền pháp luật trong một Nhà nước pháp quyền đích thực của dân, do dân và vì dân - nền pháp luật của đạo đức. Nói theo tinh thần của Hồ Chí Minh: Nhà nước ấy phải làm sao giáo dục cho nhân dân biết sử dụng

các quyền của mình, dám nói, dám làm... trong khuôn khổ pháp luật. Trong đời sống xã hội, không phải mọi vấn đề đều có thể pháp luật hóa cũng như không phải mọi hành vi pháp luật không cấm đều có thể làm mà không bị dư luận xã hội lên án. Mặc dù có vai trò và vị trí không thể thay thế trong quản lý xã hội, song pháp luật không phải là duy nhất, bởi vì dù đầy đủ đến đâu, pháp luật cũng chỉ đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản liên quan tới lợi ích và vận mệnh quốc gia. Bởi sự tồn tại của con người bao giờ cũng mang tính cộng đồng, cho nên đạo đức là nền tảng của đời sống con người và xã hội. Chính đạo đức và các quy tắc xã hội khác sẽ bổ sung và lấp đầy những "khoảng trống" mà pháp luật chưa và không thể điều chỉnh hết. Hơn nữa, hiệu quả quản lý xã hội không thể đạt được chỉ nhờ quyền uy của pháp luật mà còn nhờ tấm gương đạo đức của những người thi hành công vụ; cũng như pháp luật được xây dựng trên nền tảng giá trị đạo đức cách mạng sẽ tạo ra những tình cảm pháp lý tự nguyện của các chủ thể trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Vì vậy, cùng với nâng cao hiểu biết và nhu cầu tuân thủ pháp luật, việc tăng cường giáo dục đạo đức sẽ góp phần hình thành những chuẩn mực ứng xử văn hóa, văn minh giữa con người với con người, nâng cao hiệu quả quản lý và lành mạnh hóa các QHXH. Thực tế lịch sử cũng cho thấy: các giá trị, chuẩn mực đạo đức chỉ có ý nghĩa thiết thực khi nó là cơ sở, môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực thi pháp luật. Ngược lại, tính chất văn minh, tiến bộ của một nền pháp lý suy cho cùng là ở chỗ phản ánh, bảo vệ và làm gia tăng các giá trị đạo đức mới. Đạo đức và pháp luật chỉ có thể phát huy tối đa vai trò và hiệu quả khi nó được đặt trong sự thống nhất hữu cơ, biện chứng với nhau, vì sự phát triển của xã hội và vì hạnh phúc của nhân dân. Sự kết hợp giá trị của pháp luật với giá trị của đạo đức là một nguyên tắc trong xây dựng môi trường văn hóa pháp lý; là cơ sở để “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại” [4, tr. 113]. Vì vậy, trong khi xem pháp luật là công cụ QLXH chủ yếu của nhà nước, để phát huy quyền lực của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng cần coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức XHCN, huy động tối đa các yếu tố phi quan phương khác như thuần phong mỹ tục,

các chuẩn mực đạo đức truyền thống; mở ra nhiều hình thức nhân dân tham gia tự quản tại cơ sở bằng cách tái lập các quy ước, hương ước để hỗ trợ pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trên cơ sở phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế của hai công cụ pháp luật và đạo đức; việc thực hiện phương châm kết hợp thống nhất giá trị pháp luật với giá trị đạo đức, lấy đạo đức cách mạng làm hệ giá trị chuẩn là cách thức tạo lập trật tự xã hội có hiệu quả.

Hai là, đưa các chuẩn mực đạo đức cơ bản vào nội dung các văn bản pháp luật. Trong thực tế cuộc sống, nếu ở đâu thiếu luật, hoặc luật không đủ bao quát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì ở đó, lấy đạo đức, lấy dư luận xã hội để điều chỉnh. Vì vậy, một mặt đề cao đạo đức sẽ góp phần đắc lực hạn chế những khiếm khuyết của pháp luật; mặt khác, phải đưa những chuẩn mực đạo đức mới vào pháp luật, luật hóa những chuẩn mực đạo đức đó để pháp luật thực sự là một công cụ hữu hiệu bảo vệ và phát triển đạo đức. Nói một cách khác, trong sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa đạo đức và pháp luật thì đạo đức với sự giáo dục, thuyết phục sẽ tăng sức lan tỏa lâu bền, pháp luật với sức mạnh cưỡng chế sẽ tạo nên xung lực mới. Lúc này hơn lúc nào hết là phát huy cao độ những phẩm chất đạo đức mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu bằng việc tập trung luật hóa cho được những phẩm chất cụ thể sau đây:

- Trung với nước, với Đảng, hiếu với dân; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.

- Yêu thương con người, sống có tình nghĩa, có tinh thần quốc tế trong sáng.

- Cần, kiệm, liêm, chính; chí công, vô tư.

Những phẩm chất nêu trên cũng là những chuẩn mực hết sức cơ bản để xây dựng nền đạo đức mới theo TTHCM. Điều cần thiết và không giản đơn là phải vận dụng nó như thế nào trong thực tế hiện nay?. Người ta không thể không nghĩ ngay đến vấn đề đối tượng điều chỉnh của cả đạo đức và pháp luật. Đây chính là điểm chung, điểm "đồng", điểm giao nhau giữa hai lĩnh vực, hai hình thái ý thức (mà ta đề cập). Ba chuẩn mực đó về cơ bản là tiêu chí đạo đức chung, nền tảng cần được luật hóa rõ hơn nữa trong các đạo luật cơ bản, trong Hiến pháp: (phần về Nghĩa vụ công dân). Nghĩa vụ đó, trước hết phải nói đến lý tưởng và đạo đức - (trung với

nước, trung với Đảng, với lý tưởng cao đẹp của Đảng), đó là cái gốc của con người mới, của người công dân mới. Bởi vì nếu thiếu nền tảng đó, con người sẽ không đủ ý chí, nghị lực, sức mạnh vượt qua những thách thức và biến động khó lường để hoàn thành nhiệm vụ.

Tuy nhiên, cũng trong các tiêu chí ấy, có những nội dung, được điều chỉnh bởi những luật, văn bản luật, pháp lệnh với mỗi đối tượng cụ thể. Chẳng hạn, "hết lòng hết sức phục vụ nhân dân" trong Luật Công chức, Luật Quốc phòng, Luật Công an, An ninh nhân dân. "Sống có tình nghĩa" trong Luật Hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, trong đời sống sinh hoạt thường ngày, từ trước đến nay những giải thích của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư" đã là rất rõ ràng và đầy đủ; nhưng cần nhìn nhận và vận dụng bằng tư duy biện chứng phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Không thể chỉ giơ tay hô hào hay khuyến nghị chung chung, cứng nhắc trước thực trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên xuống cấp về đạo đức, thiếu cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Sự thực là họ đã và đang đi ngược lại với ý nghĩa của các khái niệm này. Đó chính là họ đã mắc phải các bệnh lười biếng (đối nghịch với cần), xa hoa lãng phí (đối nghịch với kiệm), quan liêu tham nhũng, cơ hội (mà Hồ Chí Minh gọi là hoạt đầu, hiếu danh, kiêu ngạo, óc lãnh tụ, cục bộ bè phái, cận thị, hẹp hòi, chia rẽ đoàn kết, khuất tất thiếu minh bạch…và đối nghịch với liêm, chính, chí công, vô tư).

Suy cho cùng, căn nguyên sâu xa của các bệnh này chính là cá nhân chủ nghĩa, làm cái gì cũng chỉ nghĩ đến mình, ham muốn vật chất và quá nhiều tham vọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, những người có thói hư tật xấu là do cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra. "Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm" (8). Theo Người là phải chống kiên quyết và triệt để, phải tiêu diệt nó. Cần tăng cường mạnh mẽ và cụ thể hơn trong các Luật Phòng chống Tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Hải quan, Bộ Luật Lao động, Bộ Luật Dân sự, Luật Hình sự, các luật và pháp lệnh liên quan, các quy phạm pháp luật. Có như vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thể hiện được tính nhất quán trong vận dụng

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí