Thay Đổi Dạng Thức Nhân Vật Bất Biến


đổi mới, thủ pháp dòng ý thức đã ít nhiều được các nhà văn sử dụng nhưng phải đến sau 1986 nó mới có thể trở thành ý thức nghệ thuật “tự giác và thường trực” trong đó tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh là một thành công xuất sắc. Ở thể truyện ngắn, các tác phẩm Phiªn chî Gi¸t (Nguyễn Minh Châu), Kịch câm, Si tình (Phan Thị Vàng Anh), Trong c¬n m•a (Phạm Thị Hoài), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), Chơi Hạ Long, Biển trong mưa (Lý Lan),... với thủ pháp tự sự dòng ý thức, các nhà văn đã miêu tả đời sống thông qua trạng thái suy tư của nhân vật. Với truyện ngắn Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu), việc sử dụng thủ pháp dòng ý thức đã cho thấy những hiệu quả nghệ thuật trong việc phá vỡ tính lô gic của sự kiện, “phá hủy tính biên niên và tính lô gic thời gian” đồng thời nhân vật được hiện diện trong nhiều chiều kích. Lão Khúng – nhân vật chính của truyện hiện diện với hồi ức, giấc mơ, ở đó nội tâm nhân vật được soi chiếu, phân tích và làm hiện lên suy nghĩ về kiếp người, về vòng luân hồi, ám ảnh thân phận, khát vọng tự do. Tác phẩm như một giàn ăng ten với nhiều kênh thông tin, một kết cấu mở đem đến cho người đọc hứng thú đi tìm các lớp nghĩa. Với lối viết dựa vào dòng ý thức, các sáng tác theo khuynh hướng này không thiên về cốt truyện sự kiện mà thường khai thác ý nghĩ của nhân vật. Đằng sau lối kể chuyện tự do, lối tự sự “đứt nối, lộn xộn, bột phát” là quan niệm và lối sống của mỗi cá nhân riêng biệt. Đằng sau những phát ngôn của nhân vật là những trạng thái tâm lý, những suy ngẫm về cuộc đời và con người. Không có mở đầu và kết thúc, kết cấu truyện ngắn Biển trong mưa (Lý Lan) chỉ bao gồm những đoạn đối thoại. Bỏ qua vai trò của người kể chuyện, hay nói cách khác là ẩn đi nhân vật người kể chuyện, câu chuyện cứ thế diễn ra một cách tự nhiên. Ở những truyện ngắn mà dòng ý thức đã trở thành sợi dây kết nối mạch truyện, thời gian thường mang tính ước lệ, quá khứ và hiện tại cùng đồng hiện đan xen theo dòng tâm tưởng của nhân vật. Tác phẩm thiên về bộc lộ cảm nghĩ và suy tưởng hơn là bám sát miêu tả sự kiện và biến cố của đời sống. Tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện không còn là nguyên tắc tổ chức tác phẩm. Diễn biến của truyện đôi khi đứt đoạn, không liền mạch. Đồng hiện thời gian, độc thoại nội tâm,


hồi tưởng được xem là những cách triển khai hợp lý nhằm khắc hoạ đời sống nội tâm của nhân vật cũng như những trạng thái của đời sống.

Tiểu kết chương 2:


Ở trên, chúng tôi đã khảo sát quan niệm và sự đổi mới quan niệm truyện ngắn Việt Nam trong quá trình vận động của thể loại. Có thể thấy sự đổi mới thể loại thể hiện trên nhiều cấp độ: ở quan niệm nghệ thuật, quan niệm thể loại của nhà văn, đồng thời còn được thể hiện qua việc thiết tạo, sử dụng những phương thức, bút pháp nghệ thuật trong quá trình sáng tác. Thực tiễn đời sống thể loại cũng như các quan niệm thể loại cho thấy nổi lên hai xu hướng. Thứ nhất là khuynh hướng coi truyện ngắn là một thể loại độc lập với những quy ước thể loại, những đặc trưng thi pháp. Thứ hai (tập trung ở những người viết chú ý nhiều đến những cách tân hình thức) là khuynh hướng làm mờ ranh giới thể loại. Truyện ngắn đồng nghĩa với sự đa dạng, biến đổi không ngừng, truyện ngắn tồn tại như một thể loại “tự sự động”. Tính mở, tính động và tính trò chơi của truyện ngắn trở thành chất xúc tác, khơi nguồn sáng tạo của nhà văn, kích thích họ tìm tòi những thủ pháp nghệ thuật mới lạ. Với việc vận dụng nhiều bút pháp trần thuật trong cách thức xây dựng tác phẩm, các cây bút truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã đem đến cho văn học thời kỳ này những sắc thái mới.


CHƯƠNG 3


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.

CÁC DẠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT VÀ TỔ CHỨC KẾT CẤU VĂN BẢN TRUYỆN NGẮN


Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ thể loại - 11

3.1. Các dạng thức xây dựng nhân vật

Khi tiếp cận với hệ thống nhân vật trong sáng tác văn học các nhà nghiên cứu thường dựa vào nhiều cấp độ. Chẳng hạn đã từng tồn tại cách phân loại nhân vật theo các bình diện: kết cấu (nhân vật chính – phụ), ý thức hệ (nhân vật chính diện – phản diện), cấu trúc (nhân vật chức năng – nhân vật loại hình – nhân vật tư tưởng), thành phần xã hội (nhân vật nông dân – nhân vật chiến sỹ - nhân vật trí thức,…). Sự phân chia này bị chi phối bởi đặc điểm loại hình nhân vật trong từng thời điểm lịch sử, giai đoạn văn học cụ thể. Ở mỗi trào lưu, mỗi giai đoạn, do sự chi phối của nhiều yếu tố, thế giới nhân vật trong các sáng tác mang tính đặc thù thể hiện những quan điểm khác nhau về con người và cuộc đời. Nhân vật trong văn học giai đoạn trước 1975 thường là nhân vật đơn nhất. Sau 1975, quan niệm về con người cá nhân, cá thể qua lăng kính của nhà văn đã được khúc xạ bằng thế giới nhân vật đa dạng. Sự phân chia theo các dạng thức trên đây đã phần nào phản ánh được đặc trưng của một hệ hình tư duy nghệ thuật mang tính lịch sử. Với văn học Việt Nam hiện nay, cũng như với thể loại truyện ngắn thì những dấu hiệu khu biệt này đã không còn hợp lý, nghĩa là thế giới nhân vật được nhà văn xây dựng tạo tác đã khác trước.

3.1.1. Thay đổi dạng thức nhân vật bất biến

Tồn tại trong bối cảnh đặc thù của chiến tranh cách mạng, văn học giai đoạn 1945 – 1975 nói chung và truyện ngắn nói riêng chịu sự chi phối của hoàn cảnh chiến tranh, theo đó văn học cũng phải hướng tới nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, cổ vũ công cuộc xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975 với nhiệm vụ phục vụ kháng chiến đã lấy công – nông – binh làm nhân vật trung tâm. Nhân vật thường mang tính chung và có mô hình khá giống nhau.


Trong ý thức hướng tới thể hiện con người mới xã hội chủ nghĩa con người công dân, con người cộng đồng, nhân vật thường được xây dựng là con người hướng ngoại, đời sống nội tâm không mấy phức tạp. Ở những tác phẩm đó, người đọc khi đọc tác phẩm sẽ được tiếp xúc với một thế giới nhân vật được biết trước: việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học là sự bồi đắp, gia cố bằng các chi tiết, tình huống, đặc điểm của những con người có thật trong đời sống. Về cơ bản, nhân vật được hiện diện với tính cách định hình, những đặc điểm đã đi vào tâm thức người đọc. Sự nở rộ loại hình truyện ký người thật việc thật trong văn học kháng chiến đã cho thấy một hình thái tư duy và những nguyên tắc xây dựng nhân vật mang tính đặc thù trong bối cảnh đời sống kháng chiến. Tính chất bất biến của nhân vật văn học ở đây là phù hợp với tiêu chuẩn “con người mới”: con người với những phẩm chất công dân, đặt quyền lợi chung, lòng yêu nước lên cao nhất, hoặc kết hợp hài hòa cái chung và cái riêng như nhân vật trong truyện ngắn Mảnh trăng (Nguyễn Minh Châu).

Thời kỳ đổi mới, với ý thức thay đổi mối quan hệ tác giả - nhân vật và người đọc, với sự đổi mới tư duy nghệ thuật đã dẫn đến sự thay đổi trong cách thức xây dựng nhân vật. Đến nay, nhà văn không nhằm khắc họa những mẫu hình nhân vật mang tính chung mà hướng tới việc thể hiện nhân vật với những đặc điểm tính cách tâm lý phức tạp, đa tính cách, luôn biến đổi. Trong truyện ngắn đương đại, thế giới nhân vật càng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, mỗi nhân vật là một tính cách, một hoàn cảnh và thái độ ứng xử độc lập, khác biệt. Không chỉ viết về con người công nông binh vốn là nhân vật trung tâm của văn học giai đoạn trước mà văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng hướng tới mọi vấn đề của con người trong đời sống. Có thể đó là người nông dân, người lính hậu chiến, cũng có thể là những người thị dân trong cuộc mưu sinh, trong cách ứng xử mà ở đó nhân cách họ được bộc lộ. Nếu như trước đây hình tượng, đề tài văn học thường được trở đi trở lại là nông thôn, nông dân, chiến tranh, người lính; vì thế những vấn đề được đề cập thường xuất phát từ những vấn đề của nông thôn, của chiến tranh cách mạng và theo đó đời sống của mỗi cá nhân luôn được đặt trong mối quan hệ với tập thể thì trong bối cảnh những thập niên gần đây văn học lại hướng nhiều đến việc thể hiện đời


sống của thị dân, đời sống cá nhân trong môi trường của những đô thị hiện đại, bao gồm cả không gian sinh tồn, bầu sinh quyển đô thị và những hoạt động, trạng thái tinh thần của con người trong bối cảnh đó. Nhiều kiểu dạng nhân vật mới như công chức, trí thức, doanh nhân, giám đốc, kỹ sư – những con người là sản phẩm của văn minh đô thị xuất hiện nhiều trong truyện ngắn. Cùng với nó là việc hướng sự quan tâm đến những vấn đề của con người cá nhân với nhiều trạng thái tâm lý, tính cách trong đời sống. Chỉ riêng việc khắc họa trạng thái cô đơn của con người trong đời sống đô thị hiện đại cũng đã có nhiều cung bậc. Đó có thể là nỗi cô đơn trong chính ngôi nhà của mình, trong cuộc sống hàng ngày mà họ phải đối mặt: Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Người đàn bà và những giấc mơ – Y Ban, Một nửa cuộc đời, Biển ấm, Tân cảng (Nguyễn Thị Thu Huệ) và họ không có cách gì giải tỏa, không thể chia sẻ cùng ai: “Tôi cô đơn quá rồi”, “sao người mỗi ngày một đông như kiến mà tôi cô đơn thế này” (Mi nu xinh đẹp), “Ngồi với mình lâu một chút nhé. Ai cũng bảo không có thời gian. Mình cô đơn quá” (Y Ban). Đó có thể là nỗi cô đơn của một thế hệ khi những giá trị tinh thần của gia đình truyền thống đang bị mất dần đi trong xã hội đô thị hiện đại (Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp, Của để giành – Nguyễn Thị Thu Huệ), cô đơn trước không gian đô thị choáng ngợp: “Đường phố rộng và thừa thãi gió, tuênh toang, trống trải lạ lùng” (Cát đợi – Nguyễn Thị Thu Huệ); trạng thái trống trải và đơn độc của con người trong thành phố khi chỉ có công việc mà không có người thân bên cạnh (Thành phố không mùa đông – Nguyễn Thị Thu Huệ). Nỗi cô đơn của những thực thể sống trong những tòa cao ốc, cách biệt với con người và thế giới xung quanh: “Đến tận tầng mười sáu. Ở trên tầng cao, sự cách biệt đã dần biến thành nỗi cô đơn gần như tuyệt đối. Cách biệt với thành phố bên dưới. Cách biệt với phần còn lại của tòa nhà bên trên. Và cách biệt với ngay cả hàng xóm láng giềng là căn hộ đối diện chung nhau có một hành lang tối” (Vu vơ ở lưng chừng trời – Đỗ Phấn).

Có thể thấy, hình thức xây dựng cốt truyện trên cơ sở người thật việc thật, những nguyên mẫu trong đời sống vốn phổ biến trong các truyện ký chống Mỹ đến nay trở nên thưa thớt mà thay vào đó là nhiều kiểu dạng nhân vật mới, đa dạng hóa các loại hình nhân vật. Chất liệu xây dựng nhân vật trong truyện ngắn đương đại


vẫn từ cuộc sống, từ những con người đang tồn tại xung quanh chúng ta nhưng là những con người cá nhân với muôn hình vạn trạng hình thức biểu hiện.

• Cái nhìn mới về nhân vật lịch sử:

Cũng có trường hợp nhà văn lựa chọn nhân vật lịch sử để xây dựng nhân vật văn học nhưng lịch sử được xem như một nguyên cớ để nhà văn tạo nên những sáng tạo nghệ thuật qua đó thể hiện quan niệm về con người và cuộc đời. Đó là cách nhà văn ứng xử với nhân vật lịch sử. Sự xuất hiện của bộ ba truyện ngắn lịch sử Vàng lửa, Kiếm sắc Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp từng dấy lên những tranh luận trên văn đàn. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những nhân vật lịch sử như Gia Long, Quang Trung, Nguyễn Thị Lộ đã không còn vẹn nguyên những đặc điểm từng được lưu truyền trong sử sách, mà lịch sử được xem như một chất liệu và nhà văn có quyền tái tạo lịch sử theo cảm quan mới. Với Nguyễn Huy Thiệp, những nhân vật dân gian như Trương Chi, những tên tuổi như Hồ Xuân Hương đều có thể trở thành nhân vật văn học nhưng lại không trùng khít với những dấu ấn đã đi vào tâm thức cộng đồng. Năm 2008, cây bút Trần Thùy Mai cho ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Một mình ở Tokyo trong đó có nhiều truyện ngắn viết về nhân vật lịch sử. Các truyện ngắn Nàng công chúa té giếng, Thần nữ đi chân không, Nơi có những cây tùng xanh biếc viết về các nhân vật lịch sử như vua Gia Long, Trịnh Hoài Đức, cũng như lịch sử vương triều Huế với cái nhìn giải thiêng, thân mật hóa đối tượng. Ở những truyện ngắn này lịch sử được coi như một nguyên cớ, lịch sử như một tấm phông và tác giả có quyền tái tạo hiện thực bằng những suy lý lịch sử, bằng các tuyến nhân vật độc đáo. Các nhân vật trong lịch sử đôi khi được các sử gia ghi chép khá sơ lược, người viết đã phục dựng lại thành những nhân vật văn học bằng cách bổ sung những giai thoại dân gian, trí tưởng tượng suy lý lịch sử. Trong truyện ngắn Dị hương (Sương Nguyệt Minh), nhân vật Nguyễn Phúc Ánh (tức vua Gia Long) được xây dựng bằng cảm quan và tinh thần hiện đại. Từ lối thuật truyện, cách thức sử dụng ngôn ngữ (qua lời người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật) đến việc tạo dựng nhân vật Nguyễn Ánh (không chỉ ở vị thế của một vị vua mà là một cá nhân trần tục đầy những ham muốn nhục dục), truyện ngắn đã khơi gợi nhiều vấn đề không chỉ của người xưa mà cả với con người hôm nay. Những vấn đề đặt ra


trong truyện ngắn cùng với lối viết, cách xây dựng, khắc họa nhân vật, bởi vậy đã tạo nên những dư luận trái chiều ngay từ khi tác phẩm vừa ra mắt bạn đọc. Đặt Trần Thùy Mai bên cạnh Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh, Sương Nguyệt Minh để thấy rằng nhu cầu viết về lịch sử theo cảm quan mới vẫn là nhu cầu thường trực của nhiều cây bút.

• Giả cổ tích, giả huyền thoại – những sáng tạo mới:

Dân gian hóa nhân vật là cách thức người viết sử dụng những hình tượng nhân vật từng tồn tại trong các tác phẩm văn học dân gian, những nhân vật đã đi vào lịch sử để xây dựng thành nhân vật trong tác phẩm truyện ngắn nhưng đó chỉ là chất liệu để nhà văn sáng tạo, hư cấu. Nhà văn sử dụng tên nhân vật trong một số truyện cổ đặt tên cho nhân vật của mình trong ý đồ thực hiện những mục đích sáng tạo mới.

Trong nhiều truyện ngắn, người viết đã xây dựng nhân vật từ những nhân vật dân gian, nhân vật được huyền thoại hóa như Trương Chi (Nguyễn Huy Thiệp), Câu hát (Lưu Sơn Minh), Sự tích một ngày đẹp trời, Nhân sứ (Hòa Vang), Gióng (Lê Minh Hà) nhưng lại mang những đặc điểm mới, đem đến cho người đọc cảm quan mới. Với Trương Chi, Nguyễn Huy Thiệp đã sáng tạo nên một folklore hiện đại. Trương Chi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vẫn là người có giọng hát hay, xấu về hình thức nhưng đã được trần tục hóa. Không còn giữ âm hưởng thơ mộng, trữ tình trong truyện cổ, Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp đã sống một cuộc đời khác, với dấu ấn cá tính rõ nét. Cũng từ một nhân vật Trương Chi trong truyện cổ, mỗi nhà văn lại có những sáng tạo của riêng mình khiến cho mỗi nhân vật Trương Chi trong đó lại có đời sống và số phận khác nhau, như trong Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp, trong Câu hát của Lưu Sơn Minh, trong Trương Chi của Bão Vũ.

Đọc Sự tích một ngày đẹp trời người đọc có thể nhận ra những thay đổi trong cách thức xây dựng nhân vật từ giọng kể và ngôi kể ngay từ đầu truyện. Nhân vật Thủy Tinh trong truyện ngắn Sự tích một ngày đẹp trời (Hòa Vang) là nhân vật xưng tôi, tự giãi bày về những lý do khiến mình không có đủ sính lễ để cầu hôn Mỵ Nương. Khác lối tự sự dân gian với sự hiện diện của “người kể chuyện biết tuốt”,


với sự chi phối của điểm nhìn toàn tri, điểm nhìn từ bên ngoài, ở đây Hòa Vang đã chọn lối kể chuyện từ điểm nhìn bên trong, qua đó nhân vật được giãi bày những nỗi niềm, những suy tư thầm kín. Bên cạnh đó là việc đi sâu vào đời sống tâm lý của nhân vật, không chỉ Thủy Tinh với “nỗi cô đơn mênh mông, cồn cào, như cả xứ sở đầy sóng gió, biển cả và đại dương” mà còn là Mỵ Nương, về những ngày tháng Mỵ Nương sống xa quê kể từ khi làm vợ Sơn Tinh, về nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ cha mẹ và đặc biệt là nỗi cô đơn của chính nàng. Những nỗi niềm của Mỵ Nương không còn là của một nàng công chúa sống trong cung cấm mà là của một người phụ nữ với những khát khao hạnh phúc rất đời thường. Thủy Tinh trong truyện ngắn của Hòa Vang không còn là nhân vật phản diện mà cũng là người giàu tình cảm với tình yêu say đắm dành cho Mỵ Nương. Từ Thủy Tinh trong văn học dân gian đến Thủy Tinh trong Sự tích một ngày đẹp trời là cả một sự khác biệt lớn: không chỉ khác biệt về nhân sinh quan, thế giới quan mà còn là sự khác biệt giữa tư duy nghệ thuật dân gian và lối tự sự đương đại với cái nhìn thoát khỏi định kiến. Trên nền tảng câu chuyện dân gian quen thuộc, Tấm Cám của Lê Minh Hà đã có những sáng tạo mới, với những cảm quan mới. Cách nhìn nhận Tấm với sự toàn thiện toàn mỹ của lối tư duy dân gian đã không còn trong truyện ngắn của Lê Minh Hà. Tác giả truyện ngắn đã đề cập đến một khía cạnh là sự thiếu nhân bản của nhân vật Tấm trong hành động trả thù mẹ con Cám. Tác giả cũng đi sâu vào nỗi niềm của Tấm với nỗi chua xót, trống trải, những day dứt, mặc cảm bởi hành vi trả thù của chính mình và chính điều này đã làm thay đổi con người Tấm khiến nàng không giữ được tình cảm của chồng - đấng quân vương - và những người trong cung cấm như trước. Khác với lối kể chuyện theo tư duy dân gian, qua hình thức đối thoại giữa hồn ma (Cám) với Tấm, đời sống nội tâm nhân vật được diễn tả, khai phá. Nhân vật Tấm, Cám trong truyện ngắn Lê Minh Hà không tồn tại với tư cách những nhân vật chức năng đại diện cho cái thiện, cái ác mà trong mỗi nhân vật đều có phần ác và phần thiện, và như vậy, nhân vật trở nên gần gũi, đời thường hơn.

Nhân vật trong những tác phẩm dân gian thường xuất hiện để thể hiện một chức năng nào đó, bởi vậy mang tính khái quát cao, nhân vật thường đại diện cho một tầng lớp người và việc thể hiện tính cách, tâm lý nhân vật không được chú

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/09/2023