CHƯƠNG 4. KIẾN NGHỊ, KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
4.1. Kiến nghị, khuyến nghị
4.1.1. Cơ sở xây dựng kiến nghị khuyến nghị
Quyết định số 880/QĐ-TTg, ngày 09/6/2014 Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Quyết định số 879/QĐ-TTg, ngày 09/6/2014 Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 với những nội dung chủ yếu sau:
Với quan điểm: Phát triển công nghiệp tỉnh Phú Thọ phù hợp với Quy hoạch phát triển KTXH và Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của tỉnh, của Vùng và cả nước, đồng thời gắn với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, lấy mục tiêu phát triển công nghiệp là động lực quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và phù hợp với thế mạnh kinh tế của địa phương. Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực quản lý, điều hành ngành công nghiệp; phát triển các ngành công nghiệp có sức cạnh tranh, có thị trường tiêu thụ, gắn với sản phẩm công nghiệp có hàm lượng chế biến sâu, giá trị gia tăng cao. Định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất công nghiệp tập trung trong các khu, cụm công nghiệp đã quy hoạch, ưu tiên phát triển công nghiệp sạch và thủ công mỹ nghệ gắn với dịch vụ, du lịch, nông nghiệp và sinh thái, gắn mục tiêu phát triển công nghiệp phải chú trọng đến các yếu tố bảo vệ môi trường và phát triển bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội.
Định hướng phát triển công nghiệp tỉnh Phú Thọ: Tiếp tục thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa; thân thiện với môi trường. Ưu tiên các ngành, sản phẩm công nghiệp mà tỉnh có vùng nguyên liệu và thị trường truyền thống như: chế biến chè; chế biến giấy; bia; phân bón; VLXD; dệt may-da giày; chế biến gia súc, gia cầm. Khuyến khích và thu hút các dự án có lợi thế cạnh tranh, giá trị gia tăng lớn như: cơ khí lắp ráp, cơ khí nông nghiệp, điện tử, công nghiệp phụ trợ, chế biến gỗ, sản xuất VLXD, dệt may cao cấp, thực phẩm đồ uống. Chú trọng phát triển các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề để
đáp ứng nhu cầu sản xuất công nghiệp ở nông thôn nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của trung ương về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp được quy hoạch để thu hút mạnh đầu tư tăng tỷ lệ lấp đầy. Chú trọng phát triển công nghiệp gắn với phát triển dịch vụ chất lượng cao, công nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến trong nông nghiệp ở vùng nông thôn. Hạn chế phát triển công nghiệp ở bên ngoài các khu, cụm công nghiệp.
Đối với các ngành công nghiệp có nguy cơ ảnh hưởng và tác động mạnh đến môi trường như chế biến khoáng sản, hóa chất, dệt nhuộm... không thu hút đầu tư bằng mọi giá nếu các dự án đầu tư không đáp ứng đủ các điều kiện về môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quá trình sản xuất cần kiểm soát nghiêm ngặt về việc tuân thủ các quy định môi trường, chất thải... nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực mang lại.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Độ Tin Cậy Của Thang Đo Các Nhân Tố Thực Hiện Trách Nhiệm Xã Hội Của Doanh Nghiệp Với Người Lao Động Và Môi Trường
- Tác Động Của Các Yếu Tố Thực Hiện Trách Nhiệm Xã Hội Của Doanh Nghiệp Với Người Lao Động Và Môi Trường Đến Roe Thông Qua Biến Kiểm Soát
- Kết Quả Thực Hiện Trách Nhiệm Xã Hội Với Phát Triển Xã Hội
- Ban Quản Lý Các Khu Công Nghiệp Tỉnh Phú Thọ, Áo Cáo Tổng Kết Năm 2015,2016,2017.
- Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 20
- Doanh Nghiệp Của Anh/chị Thành Lập Năm Nào? Năm ………………..
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
Tập trung đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp trọng điểm làm hạt nhân phát triển như: Phú Hà, Cẩm Khê, Trung Hà, Phù Ninh... Hình thành các vùng, hành lang kinh tế công nghiệp để tạo dựng mối liên kết giữa vùng nguyên liệu chế biến với cơ sở sản xuất.
Tranh thủ tối đa việc tiếp nhận thiết bị và công nghệ tiên tiến; kiên quyết ngăn chặn việc nhập công nghệ lạc hậu, hao phí nhiều năng lượng và gây ô nhiễm. Thông qua đổi mới công nghệ, chuyển từ sản xuất và xuất khẩu sản phẩm thô sang chế biến và xuất khẩu sản phẩm tinh, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
Từng bước chuyển dịch các ngành công nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi thành phố, thị xã và khu đông dân cư; doanh nghiệp nhỏ, công nghiệp sử dụng nhiều lao động về địa bàn nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động giữa các vùng; thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển.
Trong quá trình phát triển, công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cần sự phối hợp với các địa phương xung quanh, nhằm hạn chế tình trạng cục bộ, đầu tư chồng chéo, cạnh tranh không cần thiết làm triệt tiêu nội lực phát triển của các địa phương trong Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Nhóm ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu tập trung và gắn với xây dựng nông thôn mới cần được đặc biệt ưu tiên phát triển làm cơ sở vững chắc để thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp nông
thôn, giúp chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, giải quyết việc làm và thu nhập, dần xóa bỏ khoảng cách giữa thành thị và nông thôn...
Bên cạnh các định hướng phát triển công nghiệp, nhà nước cũng có rất nhiều các quy định nhằm bảo vệ người lao động, coi bảo vệ người lao động là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của luật pháp về lao động. Ngay từ những năm đầu khi phát tiển nền kinh tế thị trường Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “ phải tăng cường bảo vệ người lao động, trọng tâm là ở các doanh nghiệp”. Tại hiến pháp 1992 đã có những quy định ghi nhận sự bình đẳng bảo vệ người lao động (Điều 3 và Điều 56). Bộ luật Lao động năm 1994 và năm 2012 đều có những quy định cụ thể hoá nguyên tắc bảo vệ người lao động trên các khía cạnh cụ thể: Bảo vệ việc làm cho người lao động (Điểm a, Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2012), bảo vệ quyền được trả lương theo thoả thuận (Khoản 3, điều 90 và Điều 96 Bộ luật Lao động năm 2012), bảo vệ quyền được thành lập, gia nhập hoạt động công đoàn (Điều 190, Bộ luật Lao động năm 2012), bảo vệ quyền nhân thân của người lao động.
Trong phát triển công nghiệp bảo vệ môi trường luôn là vấn đề nóng bỏng. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hoà bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Từ sau Đổi mới (1986), thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng và được xác định là một trong ba trụ cột trong tiến trình phát triển nhanh và bền vững của nước ta. Hệ thống quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường đã được hình thành và phát triển, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, được thể hiện qua văn kiện Đại hội Đảng, các chỉ thị, kết luận, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về bảo vệ môi trường.
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng xác định rõ phát triển các ngành kinh tế và bảo vệ môi trường: Nông - lâm - ngư nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá, gắn với công nghiệp chế biến, đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái, bảo vệ môi trường và tài nguyên. Ngày 25 tháng 6 năm 1998, Đảng ban hành Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Đây là lần đầu tiên Đảng ban hành chỉ thị về bảo vệ môi trường, đã đề ra 4 quan điểm cơ
bản: "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; Kết hợp phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững".
Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm bảo vệ môi trường gắn với phát triển bền vững. Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15/11/ 2004 của Bộ chính trị (khóa IX) về "Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước". Ngày 3/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24- NQ/TW "Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý nguyên và bảo vệ môi trường" khẳng định, bảo vệ môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu, vừa là mục tiêu, vừa là nội dung cơ bản của sự phát triển bền vững, đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
Bên cạnh đó là các quan điểm, chính sách của nhà nước về phát triển bền vững như: Định hướng Chiến lược phát triển bền vững Việt Ntyam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) tại Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 8 năm 2004. Phát triển bền vững trở thành quan điểm xuyên suốt trong chính sách của Đảng, Nhà nước và đã được lồng ghép trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, các Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 và 2016 - 2020. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 (Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012).
Tháng 9 năm 2015, tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững, các quốc gia trên thế giới đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu về phát triển bền vững. Nhằm cụ thể hóa Chương trình nghị sự 2030 tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017), trong đó đã đề ra 17 mục tiêu phát triển bền vững với 115 mục tiêu cụ thể. Nhằm cụ thể hóa các mục
tiêu, chỉ tiêu về phát triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 681/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2019 về lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.
Tất cả những định hướng phát triển công nghiệp, những văn bản chỉ đạo và định hướng phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường như trên là cơ sở giúp NCS hình thành các kiến nghị và khuyến nghị cho luận án này.
4.1.2. Khuyến nghị đối với doanh nghiệp và người lao động
4.1.2.1. Đối với doanh nghiệp
Các kết quả nghiên cứu trên đây đã chỉ ra rằng các nhà quản lý DN công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ còn thực hiện khá thụ động không chỉ trách nhiệm đối với người lao động và môi trường mà các trách nhiệm nói chung của DN đối với xã hội. Do đó NCS đưa ra một vài khuyến nghị nhằm giúp các DN thực hiện tốt TNXH trong thời gian tới.
Một là, mỗi DN cần xây dựng chính sách thực hiện TNXH: Với mục tiêu mục tiêu phát triển bền vững DN và tăng cường hiểu biết về TNXH trong mọi tầng lớp, các DN cần xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, các chính sách về TNXH và cố gắng thực hiện đúng các kế hoạch, chính sách đã đề ra. Việc làm này sẽ gián tiếp quảng bá tên tuổi, hình ảnh của DN qua đó nâng cao danh tiếng, uy tín từng bước khẳng định vị trí và đứng vững trên các thị trường trong nước và quốc tế. Khi xây dựng chính sách về TNXH cần phải phù hợp với các nguồn lực hiện có về tài chính cũng như con người nhằm phát huy tính hiệu quả của nguồn lực hiện có, cũng không nhất thiết phải làm những vấn đề quá to lớn mà có thể chỉ bắt đầu từ những việc nhỏ như sắp xếp gọn gàng vật liệu, sản phẩm, đồ dùng, sử dụng tiết kiệm điện, nước, nguyên liêu, nhiên liệu, làm việc chuyên nghiệp để nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, đào tạo cho người lao động để họ nâng cao tay nghề nhằm tăng năng suất lao động hoặc quan tâm đến các hoạt động văn nghệ thể thao giúp các cán bộ nhân viên giảm áp lực trong công việc, gắn kết và yêu nghề hơn từ đó gắn bó và trung thành hơn với tổ chức. Các DN tuỳ vào quy mô lớn, nhỏ hay vừa để xây dựng kế hoạch hoạt động và thực hiện TNXH sao cho phù hợp với nguồn lực hiện có và điều quan trọng là cần thực hiện lâu dài, ổn định cùng với sự phát triển của DN, coi đó như là một chiến lược kinh doanh trong thời gian dài thì mới mang lại hiệu quả cao.
Hai là, DN cần có bộ phận chuyên trách về TNXH: các DN dù lớn hay nhỏ nên có các bộ phận chuyên trách về TNXH các bộ phận này được đào tạo bài bản và có kiến thức chuyên môn, có khả năng tư vấn cho các nhà quản lý DN trong việc tạo lập và thực hiện các chính sách về TNXH, cập nhật xu thế thực hiện TNXH trong và ngoài nước để áp dụng kịp thời cho DN mình phụ trách. Việc thành lập bộ phận chuyên trách có thể làm phát sinh chi phí của doanh nghiệp ở thời điểm đầu nhưng những giá trị mang lại cho DN lại vô cùng to lớn không thể đo được bằng tiền đó chính là danh tiếng và uy tín. Đối với DN nhỏ khi mới thực hiện TNXH có thể thuê chuyên gia hỗ trợ nhằm khắc phục tình trạng thiếu nhân lực có chuyên môn. Về sau, khi công tác thực hiện TNXH trở thành hoạt động thường xuyên, định kỳ và được người lao động cũng như các bộ phận trong doanh nghiệp vận hành tốt thì DN có thể tự thực hiện các hoạt động này. Thực hiện TNXH không chỉ dừng lại ở các hoạt động từ thiện mà cần phải tiến xa hơn với mục tiêu phát triển bền vững cho DN và các bên liên quan đặc biệt là hướng đến người tiêu dùng và cộng đồng để nâng cao uy tín và danh tiếng của DN, phát triển các kế hoạch thực hiện TNXH thành các chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn, coi công việc này như là một chiến lược kinh doanh thay vì thực hiện một cách thụ động theo các quy định của pháp luật như hiện tại.
Ba là, tăng cường hiểu biết về TNXH bằng cách tuyên truyền những kiến thức, hiểu biết về TNXH cho người lao động trong DN thông qua các cuộc thảo luận chuyên đề, chia sẻ kinh nghiệm, cử cán bộ chuyên trách đi đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; bên cạnh đó Nhà nước cần tổ chức các cuộc thi nhằm nâng cao kiến thức cũng như hiểu biết về TNXH trong nước để quảng bá và giới thiệu các mô hình DN thực hiện TNXH tốt, điển hình giúp các DN khác thấy được vị trí và tầm quan trọng của việc thực hiện TNXH đối với các DN hiện nay đặc biệt các doanh nghiệp muốn hướng tới các thị trường tại các quốc gia Châu Âu trong bối cảnh hiệp định thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA) vừa chính thức có hiệu lực; cần xây dựng chính sách TNXH thành các chiến lược kinh doanh cụ thể và thực hiện hiệu quả để hướng doanh nghiệp đến vị thế mới, bước tiến mới giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển và có những đóng góp cho xã hội.
Bốn là, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất để tạo ra các sản phẩm thân thiện môi trường. Thực tế cho thấy, công nghệ giúp sản xuất giảm những
tác động xấu đến môi trường do đó đầu tư vào công nghệ là một lựa chọn thông minh giúp doanh nghiệp phát triển bền vững trong tương lai. Bên cạnh đó DN cần tăng cường các khoá đào tạo cho nhân viên để nâng cao kiến thức và kỹ năng làm việc; có chính sách hỗ trợ cho người lao động trong doanh nghiệp đặc biệt là người lao động gặp khó khăn trong cuộc sống; thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định về Luật lao động, chế độ bảo hiểm, thực hiện tốt chế độ tiền lương, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào DN có như vậy mới khuyến khích người lao động làm việc hiệu quả, gắn bó và trung thành với DN. Đây cũng là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Năm là, cần tập trung vào các yếu tố thuộc về điều kiện làm việc của người lao động bao gồm thù lao công việc, chế độ nghỉ ngơi, chế độ đãi ngộ để giữ cho mình nguồn nhân lực ổn định nhất là nhân lực chất lượng cao, tổ chức thường xuyên hoặc định kỳ các khoá đào tạo về sức khoẻ và an toàn lao động, có các chính sách hỗ trợ người lao động khi bị thôi việc hoặc ngừng việc, thực hiện chế độ tuyển dụng công bằng và công khai, cung cấp cho nhân viên một môi trường làm việc công bằng, an toàn và lành mạnh, tăng cường đối thoại với người lao động để kịp thời khắc phục và tháo gỡ những khó khăn người lao động gặp phải trong quá trình làm việc và trong cuộc sống, tạo cơ hội làm việc bình đẳng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng trong DN.
Sáu là, khuyến khích người lao động tham gia các tổ chức, hiệp hội như tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên. Không ký kết các hợp đồng lao động ngắn hạn, hợp đồng lao động mang tính chất thời vụ. Tôn trọng quyền của người lao động theo thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức để nâng cao hiểu biết về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm cho người lao động để người lao động trong doanh nghiệp nắm vững quyền và nghĩa vụ từ đó nâng cao kiến thức của người lao động trong doanh nghiệp.
Bẩy là, tích cực tham gia các hoạt động nhằm phát triển cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng tại nơi doanh nghiệp có tiến hành hoạt động kinh doanh để gắn kết mối quan hệ giữa cộng đồng với doanh nghiệp, tích cực hỗ trợ cho các chương trình, dự án; ủng hộ, tài trợ cho các quỹ, các chính sách từ thiện tại địa phương và trong cả nước, hỗ trợ cộng đồng địa phương thông qua chính sách ưu tiên tuyển dụng nhân sự làm việc tại công ty hoặc mua sắm tại địa phương. Có thể gắn lợi ích
của cộng đồng địa phương với lợi ích của DN thông qua chính sách cung cấp nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất như sử dụng nguyên liệu tại chỗ, hoặc chính sách ưu tiên, hỗ trợ khi cộng đồng địa phương tiêu dùng các sản phẩm của DN.
Tám là, Thực hiện dân chủ tại nơi làm việc dựa trên nguyên tắc thiện chí, hợp tác, trung thực, bình đẳng, công khai và minh bạch, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao đông được bày tỏ tâm tư, nguyện vọng cũng như những kiến nghị, bức xúc của bản thân trong quá trình làm việc tại DN, các quy định từ phía DN còn mang tính áp đặt không có sự thương lượng, thoả thuận trước khi thực hiện đảm bảo thực hiện quyền được biết và quyền tham gia, kiểm tra, giám sát của người lao động.
Việc đổi mới nhằm thực hiện tốt các TNXH không thể tiến hành ngay cùng một lúc được mà cần làm từng khâu một, khi DN thấy có lợi ích cho quá trình hoạt động thì sẽ tự nguyện thực hiện các bước tiếp theo. Do đó, lộ trình thực hiện không cần quá nhiều chi phí cũng không thể tiến hành trong thời gian ngắn mà điều quan trọng là có chính sách hỗ trợ phù hợp và kịp thời đặc biệt đối với các DN nhỏ và vừa.
4.1.2.2. Đối với người lao động
Lao động là một trong những yếu tố không thể thiếu với bất cứ một doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Không doanh nghiệp nào có thể tồn tại và phát triển mà không có nguồn nhân lực đáp ứng sự hoạt động và vận hành của bộ máy tổ chức. Chính vì vậy, bên cạnh quan tâm, đãi ngộ với người lao động thì bản thân người lao động tại các DN cũng cần trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. NCS đưa ra các khuyến nghị sau với người lao động trong các DN công nghiệp:
Một là, tăng cường trau dồi kiến thức xã hội và chuyên môn: người lao động cần chủ động, tích cực trong việc trang bị thêm các kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, các kiến thức về pháp luật cũng như các kiến thức xã hội để trở thành người lao động có trình độ chuyên môn cao, có kiến thức, có kỹ năng làm việc, có hiểu biết về pháp luật để trở thành người lao động có kỹ năng làm việc tốt, có hiểu biết về xã hội, hiểu biết về luật pháp và cuộc sống từ đó nâng cao giá trị bản thân đối với doanh nghiệp và đối với xã hội.
Hai là, tích cực tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia lao động: