Về Thực Trạng Pháp Luật Và Thực Tiễn Thực Hiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Thương Mại


HĐTM. Chẳng hạn như, tác giả Quách Thuý Quỳnh khẳng định: “BTTH do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh là một chế tài tiền tệ”. Trong khi đó, tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền23 và Ngô Mạnh Hùng24 lại có cùng quan điểm khi chỉ ra một số đặc trưng của loại TNBTTH do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại như: “Phát sinh khi hợp đồng đã được ký kết và có hiệu lực pháp luật; là chế tài mang tính chất tài sản; bảo đảm lợi ích tối đa cho các bên liên quan trong quan hệ hợp đồng”.

Thứ ba, về vấn đề miễn TNBTTH do vi phạm HĐTM. Các công trình nghiên cứu đã công bố cho thấy rằng, hầu hết các tác giả đều tập trung nghiên cứu các căn cứ miễn TNBTTH do vi phạm HĐTM trên cơ sở các quy định của pháp luật. Theo đó, hầu hết các quan điểm đều khẳng định có bốn căn cứ miễn trách nhiệm đó là: (i) Miễn trách nhiệm do các bên thoả thuận; (ii) Do xảy ra sự kiện bất khả kháng; (iii) Hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) Do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, có quan điểm lại khẳng định chỉ có ba căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường đó là: (i) Do các bên thoả thuận; (ii) Do trở ngại khách quan; (iii) Hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại hoặc của người thứ ba, với khẳng định rằng: “Tuy nhiên, sẽ là đầy đủ hơn nếu BLDS năm 2015 và LTM năm 2005 ngoài việc ghi nhận lỗi là căn cứ miễn TNBTTH do vi phạm hợp đồng còn bổ sung thêm căn cứ miễn TNBTTH do lỗi của người thứ ba”25.

Thứ tư, về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và BTTH trong quá trình thực hiện HĐTM. Thực tế cho thấy có rất ít tác giả tiếp cận và phân tích vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa phạt vi phạm và BTTH. Một số ít công trình tiếp cận nghiên cứu nội dung này tập trung vào hai quan điểm sau đây: Một là, quan điểm cho rằng không nên tách biệt thành hai loại chế tài phạt vi phạm và BTTH do vi phạm hợp đồng mà nên gộp lại thành một loại khi khẳng định rằng: “Trong hai cách tiếp cận: tách riêng với BTTH hay là “hai trong một” thì cách tiếp cận thứ hai sẽ phù hợp với xu hướng chung hơn”26. Hai là, quan điểm ủng hộ việc tách biệt hai loại chế tài phạt vi phạm và BTTH do vi phạm hợp đồng khi khẳng định rằng: “Cách tiếp cận của LTM năm 2005 là hợp lý, phù hợp với ý nghĩa, mục đích của BTTH khi cho rằng chỉ cần có thỏa thuận về phạt vi phạm mà không cần có “yếu tố thỏa thuận” về quyền



23 Nguyễn Thị Thu Huyền, Tlđd , tr.19-22.

24 Ngô Mạnh Hùng, Tlđd, tr.14-18.

25 Bùi Thị Thanh Hằng, Tlđd , tr.57.

26 Dư Ngọc Bích (2015), Góp ý điều khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi thường thiệt hại trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (điện tử), Hà Nội, đăng ngày 07/10/2015, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=186 (truy cập ngày 20/4/2019).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.


yêu cầu BTTH, bên bị vi phạm vẫn có thể có quyền áp dụng đồng thời cả hai chế tài”

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 5

27. Đây là cách tiếp cận hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như hệ thống pháp luật của hầu hết các quốc gia trong hệ thống pháp luật Civil law. Hơn nữa, tác giả của quan điểm này cũng phê phán việc phải có thoả thuận mới được áp dụng đồng thời hai loại chế tài này bằng việc khẳng định: “Việc quy định cần phải có một thỏa thuận “vừa phải chịu phạt vi phạm, vừa phải BTTH” để được áp dụng đồng thời cả hai chế tài là không hợp lý”28. Lý giải cho quan điểm này, các tác giả đưa ra lập luận rằng: “TNBTTH không phụ thuộc các bên có thoả thuận hay không mà phụ thuộc vào thiệt hại và các yếu tố pháp lý của hành vi vi phạm đối với thiệt hại đó để xác định thiệt hại”29.

2.1.2. Về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Thứ nhất, các công trình đã công bố, phân tích, làm rõ những căn cứ, điều kiện phát sinh TNBTTH do vi phạm HĐTM. Các tác giả đều thống nhất với nhau về một số căn cứ phát sinh TNBTTH do vi phạm HĐTM, bao gồm: (i) Có hành vi vi phạm của một bên hoặc cả hai bên tham gia HĐTM; (ii) Có hậu quả thiệt hại xảy ra cho một bên hoặc cả hai bên tham gia hợp đồng; (iii) Có mối quan hệ nhân - quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra; (iv) Có lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm HĐTM.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã công bố đưa ra các quan điểm khác nhau về vấn đề xác định thiệt hại được bồi thường. Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến nội dung luận án, tác giả nhận thấy có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến việc xác định các loại thiệt hại được bồi thường. Điều này xuất phát từ các quan điểm và cách nhìn nhận đánh giá khác nhau về hậu quả thiệt hại cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.

Thứ ba, về nghĩa vụ của bên yêu cầu BTTH. Hầu hết các công trình đã công bố đều khẳng định bên bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh tổn thất đối với mình d o hành vi gây thiệt hại trong quá trình thực hiện HĐTM. Đặc biệt, có quan điểm còn cho rằng: “Việc chứng minh thiệt hại vừa là nghĩa vụ vừa là quyền của bên bị thiệt hại. Là nghĩa vụ bởi vì họ là người đưa ra yêu cầu, nên phải chứng minh cho yêu cầu của mình; là quyền bởi vì họ là người nắm rõ nhất thiệt hại mình phải gánh chịu do sự vi phạm của bên có nghĩa vụ, nên quyền chứng minh thiệt hại sẽ đảm bảo họ được


27 Phùng Thị Phương (2019), Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng , Tạp chí Toà án (điện tử), Hà Nội, đăng ngày 08/3/2019 (https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mot-so-van -de-ve-boi- thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong (truy cập ngày 20/4/2019).

28 Phùng Thị Phương, Tlđd.

29 Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (2017, đồng chủ biên), Tlđd, tr.632.


đền bù tương xứng nhất”30.

Thứ tư, về nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Vấn đề nghĩa vụ hạn chế tổn thất đã được một số công trình nghiên cứu đề cập đến theo hai hướng tiếp cận tương đối khác biệt: (i) Các nghiên cứu đã chỉ ra sự ảnh hưởng của việc thực hiện nghĩa vụ này đối với việc xác định giá trị BTTH bằng việc khẳng định rằng: “Nếu bên bị vi phạm không áp dụng biện pháp hạn chế mà để mặc cho tổn thất xảy ra thì bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị BTTH bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được nếu bên bị vi phạm đã áp dụng biện pháp khắc phục”31. Hoặc khẳng định: “Mức độ thiệt hại lớn hay nhỏ, tần suất thiệt hại xảy ra nhiều hay ít đôi khi không chỉ phụ thuộc vào hành vi vi phạm nghĩa vụ, mà còn phụ thuộc vào việc bên có quyền có áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn hoặc hạn chế thiệt hại hay không”32. Đồng thời, những người theo quan điểm này còn cho rằng, việc không thực hiện nghĩa vụ hạn chế tổn thất cũng là nguyên nhân gây ra thiệt hại khi khẳng định: “Trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ chứng minh được bên có quyền đã không thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm mà không phải bồi thường phần thiệt hại do lỗi của bên có quyền”33; (ii) Một số tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của loại nghĩa vụ này khi cho rằng: “Quy định về nghĩa vụ chứng minh tổn thất là quy định hoàn toàn hợp lý, thể hiện một cách đầy đủ nguyên tắc thiện chí và trung thực trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên”34. Hoặc có quan điểm khẳng định quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất “là một quy định hợp lý, tiến bộ vì nó thể hiện sự công bằng, và sự tôn trọng nguyên tắc trung thực, thiện chí giữa các bên trong quan hệ hợp đồng”35. Rõ ràng, những tác giả tiếp cận theo hướng nghiên cứu này dường như không quá quan tâm đến sự ảnh hưởng của việc thực hiện nghĩa vụ này đến việc xác định mức bồi thường. Nếu chỉ khẳng định nghĩa vụ này thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc trung thực, thiện chí thì mới chỉ tiếp cận ở góc độ lý luận và chưa nhìn nhận ở góc độ thực tiễn của vấn đề.

Thứ năm, về thực tiễn thực hiện các chế tài xử lý vi phạm HĐTM. Có thể


30 Lê Thị Yến (2013), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.34-35.

31 Nguyễn Thị Hằng Nga, Tlđd, tr.27.

32 Nguyễn Minh Tuấn, Tlđd, tr.546-547.

33 Nguyễn Minh Tuấn, Tlđd, tr.546-547.

34 Hoàng Thị Hà Phương (2012), Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại - Những vấn đ ề lý lu ận và th ực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.46.

35 Lê Thị Yến, Tlđd, tr.35.


nhận thấy rằng, hầu hết các công trình nghiên cứu có liên quan đến TNBTTH do vi phạm HĐTM đều chỉ tập nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận, mà ít tập trung đến việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tế. Một số ít các công trình có nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật chủ yếu là các công trình được thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sĩ hoặc luận án tiến sĩ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐTM của các công trình này còn khá hạn chế.

2.1.3. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Thực tế cho thấy các công trình khoa học đã công bố bước đầu đã đề xuất được một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho việc áp dụng các chế tài trong hoạt động thương mại, trong đó có vấn đề TNBTTH do vi phạm HĐTM. Tuy nhiên, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật được các tác giả đưa ra vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại và ít có giá trị tham khảo trong bối cảnh hiện nay.

2.2. Những vấn đề lý luận và thực tiễn tiếp tục được triển khai nghiên cứu trong nội dung luận án

2.2.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Về mặt lý luận, luận án tiếp tục nghiên cứu để làm rõ các vấn đề sau đây:

- Bản chất và tính đặc thù của TNBTTH do vi phạm HĐTM so với TNBTTH do vi phạm hợp đồng nói chung – với tư cách là một loại trách nhiệm dân sự;

- Vấn đề vi phạm HĐTM và mối quan hệ giữa hành vi vi phạm HĐTM với hậu quả thiệt hại xảy ra;

- Phương pháp xác định mức độ thiệt hại trong HĐTM và nguyên tắc xác định mức độ thiệt hại trong HĐTM;

- Chủ thể trách nhiệm, chủ thể liên quan…;

- Mối quan hệ giữa chế tài BTTH và các loại chế tài khác.

2.2.2. Về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Về mặt thực tiễn, luận án khái quát, phân tích và làm rõ một số vấn đề như:

- Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM của Việt Nam so với các quy định tương ứng của một số nước trên thế giới;

- Những hạn chế, bất cập của pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM;

- Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về TNBTTH


do vi phạm HĐTM ở Việt Nam trong thời gian qua.

- Cơ chế áp dụng TNBTTH do vi phạm HĐTM.

2.2.3. Về kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án sẽ đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM. Bởi lẽ, các công trình nghiên cứu trước đây tuy đã được đề xuất một số giải pháp nhưng chưa có tính hệ thống và thiếu tính toàn diện, chưa bao quát được các vấn đề cần hoàn thiện trên thực tế. Ví dụ, trong Luận án của mình, tác giả Bùi Thị Thanh Hằng chỉ đưa ra hai nhóm kiến nghị36, bao gồm kiến nghị liên quan đến hoàn thiện pháp luật về căn cứ áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng và nhóm kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định mức BTTH. Điều này xuất phát từ phạm vi nghiên cứu không toàn diện tất cả các quy định có liên quan đến TNBTTH do tài sản gây ra. Một số kiến nghị đưa ra không cụ thể mà chỉ dừng ở mức khơi gợi vấn đề, định hướng để các chủ thể khác nêu ra kiến nghị cụ thể. Ví dụ, trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh đưa ra kiến nghị: “Cần giới hạn rõ phạm vi thiệt hại được bồi thường cho HĐTM, quy định rõ phạm vi bồi thường có bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không, nếu có thể nên liệt kê rõ những thiệt hại phi tiền tệ được bồi thường nếu có chứng cứ xác đáng như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do người chết, bị thương… đến những thiệt hại khác như chi phí luật sư, dịch thuật… Và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được hay không”37; hoặc trong công trình của tác giả Lê Thị Yến đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến các điều kiện phát sinh trách nhiệm và vấn đề miễn, giảm mức bồi thường38. Nhưng những kiến nghị đưa ra chỉ dừng ở mức định hướng, mà chưa có những kiến nghị cụ thể là sửa điều nào, khoản nào, bổ sung thêm điều khoản cụ thể nào trong văn bản nào.

3. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

3.1. Các lý thuyết nghiên cứu được áp dụng

Tác giả xác định cơ sở lý thuyết để triển khai thực hiện luận án bao gồm cách tiếp cận của luận án và các lý thuyết nghiên cứu được sử dụng trong luận án.

Cụ thể là:


36 Bùi Thị Thanh Hằng, Tlđd.

37 Nguyễn Thị Hồng Trinh (2009), Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua luật thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc UNIDROIT, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 22, Hà Nội (https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/12/10/4102-2/ (truy cập ngày 20/4/2019).

38 Lê Thị Yến, Tlđd, tr. 60-64.


- Về hướng tiếp cận nghiên cứu đề tài luận án: Luận án được tiếp cận theo hướng coi TNBTTH do vi phạm HĐTM là trách nhiệm dân sự đặc thù, do đó, phải do các bên tự quyết định trên nguyên tắc thỏa thuận và pháp luật chỉ can thiệp khi cần bảo vệ lợi ích công.

- Các lý thuyết được áp dụng trong việc triển khai đề tài luận án:

+ Lý thuyết về quyền tự do kinh doanh và quyền tự định đoạt: Lý thuyết này đặt trọng tâm vào việc đề cao quyền tự do kinh doanh trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc của luật tư;

+ Lý thuyết về hợp đồng: Lý thuyết này tập trung vào việc thể hiện triết lý tự do hợp đồng và tự do kinh doanh, với nguyên tắc cơ bản là các chủ thể kinh doanh có quyền tự do lập ước, tự do giao kết các hợp đồng mà họ mong muốn và pháp luật không cấm; đồng thời, họ cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý về các hành vi “bội ước” hay vi phạm các cam kết trong hợp đồng, trong đó có TNBTTH cho bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.

+ Lý thuyết về nghĩa vụ: Vấn đề nghĩa vụ vốn dĩ đã được phát triển thành một lý thuyết nền tảng, cốt lõi của pháp luật dân sự nói chung và pháp luật thương mại nói riêng. Lý thuyết về nghĩa vụ xem xét vấn đề căn cứ phát sinh nghĩa vụ, giới hạn của nghĩa vụ, các loại nghĩa vụ và cách thức thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ;

+ Lý thuyết về tài sản: Đây là một trong những lý thuyết có tính chất nền tảng của pháp luật tư nói chung và pháp luật dân sự hay pháp luật thương mại nói riêng. Lý thuyết tài sản đặt vấn đề về bản chất của tài sản là gì, có những loại tài sản nào, cách thức tạo lập tài sản và giới hạn quyền của chủ sở hữu trong quá trình sở hữu tài sản, đặc biệt là những tài sản dùng trong hoạt động kinh doanh (gọi là tài sản kinh doanh);

+ Lý thuyết về trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ: Thực chất, lý thuyết này phái sinh từ lý thuyết về hợp đồng và lý thuyết về nghĩa vụ, theo đó bất kỳ ai có hành vi vi phạm nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, trong đó có TNBTTH do vi phạm nghĩa vụ trong HĐTM;

+ Lý thuyết về TNBTTH do vi phạm hợp đồng: Xét về thực chất, lý thuyết này là một phân nhánh hay một trường hợp cụ thể của lý thuyết về trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ, trong đó có nghĩa vụ hợp đồng.

Ngoài ra, Luận án này cũng được thực hiện trên cơ sở quan điểm, đường lối


chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

- Thứ nhất, về nghiên cứu lý luận:

+ Câu hỏi nghiên cứu: Bản chất của TNBTTH do vi phạm HĐTM là gì? Giới hạn điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề TNBTTH do vi phạm HĐTM? Có những yếu tố nào tác động đến pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM? Khái niệm và nội dung pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM?

Giả thuyết nghiên cứu: Bản chất của TNBTTH do vi phạm HĐTM là một loại trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, nhưng có những dấu hiệu đặc thù riêng so với TNBTTH trong hợp đồng nói chung, hiện tại, các dấu hiệu đặc thù này chưa được pháp luật quy định rõ. Về giới hạn điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề TNBTTH do vi phạm HĐTM, do vấn đề BTTH vốn dĩ là lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư, nên về nguyên tắc, Nhà nước chỉ can thiệp ở mức độ hạn chế nhằm đảm bảo lợi ích công, còn các vấn đề khác, nếu chỉ liên quan đến quyền lợi tư của các bên nên để các bên tự quyết định, bởi vậy, pháp luật cần tạo điều kiện để các bên phát huy quyền tự thỏa thuận và quyền tự định đoạt của mình. Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả điều chỉnh, pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM cần được làm rõ về khái niệm và nội dung nhằm xây dựng mô hình lý luận pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM.

+ Câu hỏi nghiên cứu: Pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM có cấu trúc bao gồm những nhóm quy phạm pháp luật nào?

Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM có cấu trúc bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật quy định về chủ thể của TNBTTH; căn cứ phát sinh TNBTTH; mức độ BTTH; vấn đề miễn TNBTTH; nguyên tắc và giới hạn điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề TNBTTH; thủ tục BTTH…

- Thứ hai, về nghiên cứu thực tiễn:

Câu hỏi nghiên cứu: Thực trạng pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM hiện nay như thế nào, có những hạn chế, bất cập gì và nguyên nhân nào dẫn đến các hạn chế, bất cập đó? Quá trình thực hiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM có những khó khăn, vướng mắc gì?

Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM hiện đang có những hạn chế, bất cập nhất định; những hạn chế, bất cập này xuất phát từ một số nguyên nhân chủ quan và khách quan. Quá trình thực hiện pháp luật về TNBTTH do


vi phạm HĐTM có những khó khăn, vướng mắc nhất định xuất phát từ sự hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về trách nhiệm bồi thường do vi phạm HĐTM nói riêng.

- Thứ ba, về kiến nghị các giải pháp:

Câu hỏi nghiên cứu: Những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM là gì? Cần áp dụng những giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM? Cơ sở lý luận và thực tiễn của các giải pháp đó là gì?

Giả thuyết nghiên cứu: Các giải pháp được đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM hiện có chưa thật sự hiệu quả, bởi vậy, cần nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM.

KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN

Sau khi nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu, cho phép rút ra một số kết luận như sau:

1. Trong khoa học pháp lý hiện nay, các chế định LTM luôn thu hút sự quan tâm của nhiều học giả khác nhau, trong đó, quy định pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện khác nhau. Có những công trình nghiên cứu trực tiếp các quy định pháp luật có liên quan, nhưng cũng có những công trình nghiên cứu gián tiếp (có đề cập) về các quy định này.

2. Các công trình nghiên cứu đã công bố có đề cập nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM, tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu có liên quan đến TNBTTH do vi phạm HĐTM đều chỉ tập nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận, mà ít tập trung đến việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực tế. Một số ít các công trình có nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật chủ yếu là các công trình được thực hiện ở cấp độ Luận văn thạc sĩ hoặc Luận án tiến sĩ chuyên ngành dân sự. Song, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐTM của các công trình này còn khá hạn chế.

3. Các công trình nghiên cứu đã công bố có chỉ ra một số kiến nghị, tuy nhiên, những kiến nghị đưa ra không cụ thể, mà chỉ dừng ở mức khơi gợi vấn đề, định hướng chứ chưa đưa ra các giải pháp cụ thể là sửa điều nào, khoản nào, bổ sung thêm điều khoản cụ thể nào trong các văn bản pháp luật... Từ đó, tác giả đã xác định

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/05/2022