Căn Cứ Và Phạm Vi Trách Nhiệm Bồi Thường Của Nhà Nước Trong Hoạt Động Tths


chế pháp lý cho việc phòng, chống oan, sai và BTTH cho người bị oan do các CQTHTT gây ra, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, góp phần thực hiện yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta.

Để bảo đảm tính khả thi và tạo cơ chế hữu hiệu cho người bị thiệt hại có thể thực hiện được quyền bồi thường của mình đối với những thiệt hại do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra, Luật TNBTCNN đã quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự, cụ thể như sau:

2.1.2.1. Đối tượng được bồi thường

Đối tượng được bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự bao gồm: Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần (sau đây gọi chung là người bị thiệt hại) trong các trường hợp quy định tại Điều 26 Luật TNBTCNN và Điều 2 Thông tư liên tịch số 05 thì được Nhà nước bồi thường.

Quy định về đối tượng được bồi thường tại Điều 2 Luật TNBTCNN áp dụng chung đối với mọi trường hợp bồi thường trong tất cả các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, đối tượng BTTH do bị oan trong TTHS chỉ có thể là cá nhân do chủ thể của tội phạm là cá nhân; pháp nhân, tổ chức chỉ có quyền yêu cầu BTTH trong trường hợp do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp bị oan trong hoạt động TTHS. Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua BLHS 2015, chính thức thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Do đó, Luật TNBTCNN cần có những sửa đổi, bổ sung về đối tượng được BTTH trong hoạt động TTHS để phù hợp với quy định pháp luật hình sự mới.

2.1.2.2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại

Theo quy định của Luật TNBTCNN thì thời hiệu yêu cầu bồi thường do bị oan trong hoạt động TTHS là 02 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của CQTHTT hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN (Điều 5).


2.1.2.3. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Theo quy định của Luật TNBTCNN thì người bị thiệt hại do bị oan trong hoạt động TTHS có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN (Điều 4, Khoản 1).

So với các quy định trước đó thì các quy định về đối tượng, thời hiệu và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đã được ghi nhận rất cụ thể trong Luật TNBTCNN. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng khởi đầu cho các quan hệ bồi thường thiệt hại khi bị oan.

Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự - 6

2.1.2.4. Căn cứ và phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS

Theo quy định của khoản 2, Điều 6 Luật TNBTCNN thì việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS phải có các căn cứ sau đây:

- Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN. Đó là: Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự tiến hành nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, tạo điều kiện cho người điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ bước đầu, xác định tính chất hành vi của người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự hoặc để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Tạm giữ được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp


quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã và theo quy định tại BLTTHS thì:

... trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ (Điều 117, Khoản 4).

Trên thực tế, những trường hợp được coi là không có căn cứ, không cần thiết được coi là bị oan và được bồi thường khi lý do để huỷ quyết định tạm giữ là do người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vì, khi cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự áp dụng biện pháp này có thể xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân.

Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự do các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh pháp luật. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và thi hành án hình sự. Hay nói cách khác, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Tuy vậy, biện pháp tạm giam không phải áp dụng cho tất cả bị can, bị cáo mà nó chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 119 của BLTTHS 2015. Như vậy, biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn


chặn của tố tụng hình sự, nó ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi chính trị, quyền tự do của con người. Người bị tam giam bị cách li với xã hội, bị hạn chế một số quyền công dân. Do đó, để bảo đảm quyền của người bị tạm giam, Luật TNBTCNN đã quy định khi người bị tạm giam có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người bị tạm giam được Nhà nước bồi thường do họ bị tạm giam oan.

Ngoài ra, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước cũng có trách nhiệm bồi thường. Theo quy định tại BLTTHS, thì: “Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rò những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật” (Điều 260, Khoản 2). Những người đã bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt, người đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của toà án xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người đó sẽ được xem xét BTTH.

Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Đây là trường hợp một người tuy không bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam hoặc không bị kết án phạt tù có thời hạn nhưng họ đã bị khởi tố, truy tố, xét xử và thi hành án, hay nói cách khác họ cũng đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định tố tụng đặc trưng của mình khẳng định họ là người có tội và có thể đã buộc


họ phải chịu hình phạt (cảnh cáo, hình phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú, hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản). Do đó, khi có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường.

Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được BTTH tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành. Đây là trường hợp một người theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị tuyên là phạm nhiều tội trong cùng một vụ án và đã chấp hành hình phạt tù nhưng sau đó bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội. Do đó, khi hình phạt mà người đó phải chấp hành ít hơn thời gian mà họ đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.

Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành.


Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không phạm một hoặc một số tội. Hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù, thì được BTTH tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;

Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 26 của Luật TNBTCNN thì được bồi thường.

- Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng gây ra đối với người bị thiệt hại (Điều 6, Khoản 2). Quy định này đã khẳng định thiệt hại gây ra phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi của người tiến hành tố tụng.

2.1.2.5. Các trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự

Theo quy định tại Điều 27 Luật TNBTCNN thì các trường hợp không được Nhà nước bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự bao gồm:

- Người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm. Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam, được áp dụng trong một số trường hợp phạm tội nếu xét thấy không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không cần phải buộc họ phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt mà vẫn bảo đảm được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, vẫn bảo đảm được yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội. Như vậy, bản chất của miễn trách nhiệm hình sự là hành vi của người phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu của


một cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS nhưng vì những lý do khác nhau mà không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Do đó, người phạm tội trong trường hợp này không được Nhà nước bồi thường thiệt hại.

- Cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm.

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 26 của Luật TNBTCNN.

- Người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm.

- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.

2.1.2.6. Nguyên tắc giải quyết bồi thường

Điều 7 Luật TNBTCNN quy định việc giải quyết các vụ việc BTTH nhà nước nói chung và việc giải quyết BTTH cho người bị oan trong TTHS phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:

- Kịp thời, công khai, đúng pháp luật: Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ


quan, người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS tiến hành các hành vi TTHS vi phạm pháp luật, xâm hại tới các quyền của người bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử “oan” phải có trách nhiệm giải quyết các yêu cầu bồi thường kịp thời, công khai và đúng pháp luật. Cụ thể: Khi có đơn yêu cầu bồi thường gửi đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường thì cơ quan này phải tiến hành ngay các thủ tục giải quyết bồi thường và đúng thời hạn luật định. Khi giải quyết bồi thường phải có sự có mặt của người yêu cầu bồi thường hoặc của người đại diện hợp pháp để bày tỏ quan điểm của mình trong quá trình giải quyết bồi thường. Các quyết định bồi thường phải được công khai theo quy định của pháp luật, người yêu cầu có quyền khởi kiện tới Tòa án để yêu cầu bồi thường nếu không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường. Khi giải quyết bồi thường, cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.

- Được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ: Với tư cách là một dạng trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nên việc BTTH cho người bị oan trong TTHS phải được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Nguyên tắc thương lượng về BTTH trong TTHS được thực hiện xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận.

- Được trả một lần bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác: Theo nội dung nguyên tắc này thì người yêu cầu bồi thường được chi trả toàn bộ khoản tiền bồi thường một lần, các cơ quan có trách nhiệm không được quyền viện lý do để trả dần hay trả nhiều lần, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc áp dụng nguyên tắc này nhằm ngăn ngừa tình trạng dây dưa kéo dài việc chi trả tiền bồi thường, gây phiền hà cho người yêu cầu bồi thường.

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí