kiến nghị liên quan đến hoàn thiện pháp luật về căn cứ áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng và nhóm kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định mức BTTH.
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga “Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại” trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 09, tr.25-27, năm 2006 cũng đã phân tích một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và B TTH vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại. Bài viết có sự phân tích kết hợp giữa quy định trong LTM năm 2005 và một số ví dụ điển hình.
Trong bài viết “Một số ý kiến liên quan đến các quy định về chế tài trong thương mại theo quy định của Luật Thương mại”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, số 1, tr.43-46, năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Khế khẳng định: “Các hình thức chế tài trong pháp luật nói chung và trong LTM có một vai trò đặc biệt quan trọng. Song, các quy định về các hình thức chế tài trong thương mại chưa thực sự rõ ràng, có thể gây khó khăn cho việc áp dụng”. Liên quan đến chế tài BTTH trong LTM năm 2005, tác giả đưa ra một số quan điểm như sau: (i) Về bản chất, hình thức chế tài này là khôi phục, bù đắp nhưng lợi ích vật chất bị mất cho bên bị vi phạm; (ii) Chế tài BTTH chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm gây ra thiệt hại thực tế; (iii) Tác giả chỉ ra rằng, theo quy định tại Điều 302 LTM năm 2005, căn cứ để áp dụng chế tài BTTH là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. Tác giả cho rằng, mặc dù Điều 302 LTM năm 2005 không đề cập đến điều kiện về lỗi nhưng tại một số điều lại đề cập đến yếu tố lỗi như Điều 236, Điều 266. Đồng thời, tác giả khẳng định rằng: “Việc quy định không khoa học và không thống nhất như vậy là một nguyên nhân gây ra những cách hiểu khác nhau làm cho luật không được áp dụng một cách thống nhất”.
Trong bài viết “Nguyên tắc lỗi trong pháp luật thương mại Việt Nam” trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 11, tr. 28-37, năm 2010, tác giả Phan Huy Hồng đã hướng tới việc giải quyết câu hỏi TNBTTH trong LTM có dựa trên điều kiện về lỗi không? Tác giả đã trích dẫn quy định tại Điều 303 LTM năm 2005 để khẳng định theo quy định này, chỉ có ba điều kiện làm phát sinh TNBTTH do vi phạm HĐTM là: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Tác giả đã khẳng định: “Các phân tích trên đây cho thấy theo quy định tại Điều 303 LTM năm 2005, lỗi không còn được nêu ra là một trong các căn cứ phát sinh TNBTTH, không phải là
lỗi biên tập trong quá trình soạn thảo, cũng không phải vì các nhà làm luật cho rằng đó là lỗi suy đoán nên không cần phải nêu ra”5.
Trong cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 (tập II), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010 do PGS.TS. Hoàng Thế Liên (chủ biên) có đề cập bình luận về các quy định liên quan đến nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Liên quan đến TNBTTH do vi phạm hợp đồng, cuốn sách khẳng định BTTH xuất phát từ sự thoả thuận của các bên. Đồng thời khẳng định các bên có thể thoả thuận bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại, nếu không có thoả thuận thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Đặc biệt, bài viết “Góp ý điều khoản phạt hợp đồng và mối liên hệ với bồi thường thiệt hại trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, của tác giả Dư Ngọc Bích trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử, đăng ngày 07/10/20156 có đề cập đến điều khoản về phạt vi phạm hợp đồng và BTTH. Để đưa ra những kiến nghị cho Dự thảo BLDS, tác giả đã tiếp cận quy định về BTTH và phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật của một số quốc gia trong hệ thống common law (Anh, Mỹ), civil law (Pháp, Đức) và trong các bộ nguyên tắc về hợp đồng của các tổ chức quốc tế như: Nghị quyết về điều khoản phạt (Resolution on Penalty Clauses) năm 1971 của Hội đồng châu Âu (Council of Europe); Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG); Bộ nguyên tắc hợp đồng của Châu Âu - PECL (Principles of European Contract Law).
Trên cơ sở những nghiên cứu khái quát về phạt vi phạm và BTTH các hệ thống pháp luật này, tác giả đã phân tích và chỉ ra sự khác biệt giữa điều khoản phạt hợp đồng và điều khoản về số tiền BTTH được thỏa thuận trước khi ký kết hợp đồng trong hai hệ thống pháp luật Common law và Civil law.
Có thể bạn quan tâm!
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 1
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Về Vấn Đề Miễn Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Thương Mại
- Về Thực Trạng Pháp Luật Và Thực Tiễn Thực Hiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Thương Mại
- Những Vấn Đề Lý Luận Liên Quan Đến Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Thương Mại
- Bản Chất Của Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Thương Mại
Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.
Trong bài viết “Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng”, Tạp chí TAND điện tử, của tác giả Phùng Thị Phương, đăng ngày 08/3/20197 đã phân tích tổng hợp các quy định của BLDS năm 2015 và LTM năm 2005, đồng thời có sự so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và pháp luật quốc tế. Liên quan đến đề tài luận án, tác giả đã nghiên cứu và phân tích một số nội dung như sau: Thứ nhất, về mối quan hệ giữa BTTH và phạt vi phạm hợp đồng, tác giả chỉ ra
5 Phan Huy Hồng (2010), Nguyên tắc lỗi trong pháp luật thương mại Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, (số 11), tr.36.
6 http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=186 (truy cập ngày 20/4/2019).
7 https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mot-so-van-de-ve-boi-thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong
(truy cập ngày 20/4/2019).
rằng cách tiếp cận mối quan hệ giữa phạt vi phạm và BTTH trong LTM năm 2005 hợp lý hơn và phù hợp với ý nghĩa, mục đích của BTTH; Thứ hai, về thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng, tác giả chỉ ra rằng: “Quy định về BTTH trong BLDS năm 2015 là rõ ràng và mở rộng hơn cả, thiệt hại được bồi thường sẽ bao gồm: (i) Thiệt hại vật chất thực tế xác định được: tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; (ii) Khoản lợi ích mà lẽ ra bên có quyền yêu cầu BTTH được hưởng do hợp đồng mang lại; (iii) Chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức BTTH cho lợi ích mà hợp đồng mang lại; (iv) Thiệt hại về tinh thần”; Thứ ba, về BTTH về tinh thần do vi phạm hợp đồng, tác giả khẳng định cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có bất kỳ một tiền lệ nào về BTTH về tinh thần do vi phạm hợp đồng. Có thể thấy, cho dù căn cứ để phát sinh TNBTTH là rất rõ ràng nhưng khi xác định liệu có đặt ra vấn đề BTTH cho những tổn thất tinh thần do vi phạm hợp đồng hay không lại là điều không dễ dàng; Thứ tư, tác giả đưa ra kết luận rằng: “Những thiệt hại tinh thần được bồi thường thường là các hợp đồng mang tính “cá nhân” (hợp đồng dân sự thông thường) hơn là các hợp đồng mang tính thương mại”.
Trong cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam”, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013) của tác giả Đỗ Văn Đại, ngoài việc bàn luận về phương diện lý thuyết liên quan đến trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung và TNBTTH do vi phạm hợp đồng nói riêng, công trình này còn đề cập đến thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, trong đó tác giả đã đi vào phân tích một số bản án, quyết định để minh chứng cho những lập luận đã được nêu trong các nội dung trên.
Cũng tác giả Đỗ Văn Đại trong cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập 2)”, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2014), đã tiếp cận từ các vụ việc thực tiễn đã được các toà xét xử. Dựa trên các bản án, tác giả đưa ra nhận xét sự tồn tại của chế định BTTH trong hợp đồng dường như chưa được ghi nhận rõ ràng trong BLDS năm 20058 và làm rõ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, các loại thiệt hại có thể được bồi thường cũng như việc xác định thiệt hại được bồi thường. Trong các vụ việc đưa ra bình luận, có sáu vụ liên quan đến việc áp dụng TNBTTH do vi phạm hợp đồng. Có thể nói, các bình luận của tác giả là các gợi
8 Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.346.
ý nghiên cứu quan trọng và rất đáng tham khảo bởi sự gắn kết giữa thực tiễn xét xử với các vấn đề lý luận, giải thích pháp luật trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng nói chung và các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng nói riêng, đặc biệt là biện pháp BTTH do vi phạm hợp đồng.
Trong cuốn sách: “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, tác giả Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2016, trong đó, tập thể tác giả đưa ra những phân tích, bình luận, đánh giá các quy định trong BLDS năm 2015 và chỉ ra một số vấn đề như sau: (i) Về các điều kiện phát sinh TNBTTH (gồm bốn điều kiện): có thiệt hại thực tế xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra, có lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm; (ii) Về thiệt hại được bồi thường: thiệt hại xảy ra bao nhiêu thì người vi phạm nghĩa vụ phải bồi thường bấy nhiêu, và đương nhiên, bên yêu cầu BTTH phải chứng minh thiệt hại. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc luật có quy định khác về việc xác định mức bồi thường, thì mức bồi thường được xác định theo thoả thuận hoặc theo quy định đó. Thiệt hại được bồi thường có thể bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Mức bù đắp tổn thất về tinh thần không được quy định cụ thể nên sẽ phụ thuộc vào đánh giá của từng HĐXX, nên không có sự thống nhất chung trong áp dụng pháp luật; (iii) Về nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại: mức độ thiệt hại lớn hay nhỏ, tần suất thiệt hại xảy ra nhiều hay ít đôi khi không chỉ phụ thuộc vào hành vi vi phạm nghĩa vụ, mà còn phụ thuộc vào việc bên có quyền có áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn hoặc hạn chế thiệt hại hay không. Trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ chứng minh được bên có quyền đã không thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm mà không phải bồi thường phần thiệt hại do lỗi của bên có quyền"9.
Cuốn "Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của hai tác giả Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2017 là công trình khoa học của tập thể tác giả liên quan đến việc phân tích, bình luận, đánh giá toàn diện các quy định của BLDS năm 2015. Trong đó, nhóm tác giả đã nghiên cứu và chỉ ra một số vấn đề như sau: (i) Vấn đề BTTH cần phải được xem xét lại, bởi TNBTTH không phụ thuộc các
9 Nguyễn Minh Tuấn (2016, chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 544 – 547.
bên có thoả thuận hay không mà phụ thuộc vào thiệt hại và các yếu tố pháp lý của hành vi vi phạm đối với thiệt hại đó để xác định thiệt hại. Vì vậy, quy định việc BTTH được đặt ra khi có sự thoả thuận của các bên là chưa phù hợp. (ii) Về thiệt hại được bồi thường: Thứ nhất, bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, trừ các trường hợp do các bên chủ thể thoả thuận miễn trừ TNBTTH gây ra không do lỗi của bên gây thiệt hại, mà là do lỗi của bên bị thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng; Thứ hai, thiệt hại được bồi thường bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Việc xác định thiệt hại vật chất có thể dựa trên các tổn thất thực tế, tuy nhiên, thiệt hại về tinh thần thì thường không dựa trên những căn cứ mà bên bị thiệt hại đưa ra. (iii) Lỗi là một yếu tố để xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường trong một số trường hợp nên điều luật đã đưa ra khái niệm và hình thức lỗi làm cơ sở để xác định trong từng trường hợp nhất định10.
1.3. Các nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại
Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm HĐTM, có một số công trình tiêu biểu sau đây:
Trong công trình nghiên cứu “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013, ngoài việc phân tích lý thuyết về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về TNBTTH do vi phạm hợp đồng nói riêng, thì tác giả còn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về TNBTTH do vi phạm hợp đồng. Để đạt mục đích này, tác giả đã dựa trên kết quả phân tích, so sánh đối chiếu giữa các quy định của LTM năm 2005 và BLDS năm 2005 với chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong một số văn bản pháp lý quốc tế như UPICC và PECL để đưa ra các kết luận và kiến nghị dưới ba góc độ: về chính sách lập pháp, về nội dung lập pháp và về vận dụng quy định pháp luật.
Bài viết “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại Quốc tế qua Luật Thương mại Việt Nam, Công ước CISG và Bộ nguyên tắc UNIDROIT” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22, năm 200911 đã so sánh các quy định của LTM năm 2005 và quy định của CISG và UPICC, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện chế tài BTTH trong LTM năm 2005 để bảo
10 Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (2017, đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.559, 622 - 633.
11 https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/12/10/4102-2/ (truy cập ngày 20/4/2019).
đảm sự tương thích với LTM quốc tế như sau: Thứ nhất, cần giới hạn rõ phạm vi thiệt hại được bồi thường cho HĐTM, quy định rõ phạm vi bồi thường có bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không, nếu có thể nên liệt kê rõ những thiệt hại phi tiền tệ được bồi thường khi có chứng cứ xác đáng như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do người chết, bị thương… đến những thiệt hại khác như chi phí luật sư, dịch thuật… Và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được hay không; Thứ hai, quy định rõ thiệt hại là có tính dự đoán trước bên cạnh tính thực tế, trực tiếp; Thứ ba, quy định thêm cách tính toán thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy với hai khả năng là bên bị vi phạm đã ký hợp đồng thay thế hoặc không như cách tính toán thiệt hại với hai khả năng trên của Công ước Viên và Bộ nguyên tắc Unidroit; Thứ tư, quy định rõ về đồng tiền tính toán thiệt hại là đồng tiền quy định trong điều khoản nghĩa vụ thanh toán hoặc đồng tiền tại nơi thiệt hại phát sinh tùy theo đồng tiền nào thích hợp nhất; Thứ năm, xác định rõ có tính tiền lãi trên khoản tiền BTTH như quy định tại Điều 7.4.10 của Bộ nguyên tắc Unidroit hay không.
Trong tài liệu “Damages for Breach of Contract: Compensation, Restitution and Vindication”, David Pearce and Roger Halson (2008), Oxford Journal of Legal Studies, Vol. 28, No. 1 (Spring, 2008), pp. 73-9812, nhóm tác giả nghiên cứu vai trò của một biện pháp khắc phục khác ngoài hai biện pháp truyền thống là (1) BTTH và
(2) khôi phục lại tổn thất trong hợp đồng. Nhóm tác giả đề xuất biện pháp này là trao quyền đối với thiệt hại (vindication). Trên cơ sở phân tích và lập luận, nhóm tác giả đã đưa ra định nghĩa: Trao quyền đối với thiệt hại được hiểu là việc khắc phục không dựa trên tổn thất của bên bị thiệt hại, cũng không dựa trên lợi ích thu được của bên gây thiệt hại, mà dựa trên việc thực hiện quyền của chủ thể mang quyền trong hợp đồng. Điều này có nghĩa rằng, trong các hợp đồng, khoản bù đắp có thể không được xác định dựa trên thiệt hại thực tế mà phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên về quyền của bên mang quyền trong việc yêu cầu bên vi phạm phải chi trả một khoản tiền nhất định mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng. Từ việc phân biệt các biện pháp khôi phục thiệt hại thông thường với biện pháp trao quyền đối với thiệt hại, nhóm tác giả đã chỉ ra những lợi ích của biện pháp này mang lại khi áp dụng các biện pháp khắc phục và đề xuất công nhận đây là một biện pháp khắc phục cần được áp dụng khi vi phạm hợp đồng. Liên quan đến vấn đề này, các nhà làm luật ở Việt Nam cũng cho phép các bên được thoả thuận để áp dụng đồng thời cả yêu cầu bồi thường
12 https://www.jstor.org/stable/20185361 Accessed: 17-02-2019 19:54 UTC.
và yêu cầu nộp phạt vi phạm13, hoặc “người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức BTTH cho lợi ích mà hợp đồng mang lại”14. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự do cam kết thoả thuận đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015. Theo đó, mọi cam kết, thoả thuận không vi phạm điề u cấm của luật và không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng15.
2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và các vấn đề tiếp tục triển khai nghiên cứu trong nội dung luận án
2.1. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án
Thông qua nghiên cứu các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, tác giả nhận thấy rằng, hầu hết các công trình nghiên cứu đã công bố đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau đây:
2.1.1. Về các vấn đề lý luận liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại
Căn cứ kết quả rà soát cho thấy, một số công trình nghiên cứu đã phân tích, luận giải khá rõ về những vấn đề lý luận liên quan đến TNBTTH do vi phạm HĐTM, cụ thể là:
Thứ nhất, về khái niệm TNBTTH do vi phạm HĐTM. Một số công trình nghiên cứu ở trong nước đã đưa ra được khái niệm về TNBTTH do vi phạm HĐTM. Chẳng hạn như: tác giả Quách Thuý Quỳnh16; Nguyễn Thị Thu Huyền; Ngô Mạnh Hùng17 18; Nguyễn Thị Hằng Nga19. Thông qua các khái niệm của các tác giả được trích dẫn ở trên cho thấy điểm chung của các khái niệm này mới chỉ dừng lại ở việc xác định hậu quả đối với bên vi phạm, đó là phải bù đắp (bồi thường) những tổn thất cho bên bị vi phạm, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của hậu quả đó là xuất phát từ
13 Xem khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015.
14 Xem khoản 2 Điều 419 Bộ luật Dân sự năm 2015.
15 Xem khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.
16 Quách Thúy Quỳnh (2005), Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.18.
17 Nguyễn Thị Thu Huyền (2013), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm h ợp đ ồng trong hoạ t đ ộng
thương mại, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.18.
18 Ngô Mạnh Hùng (2015), Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.13-14.
19 Nguyễn Thị Hằng Nga (2006), Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 09), tr.27.
hành vi vi phạm hợp đồng. Điểm khiếm khuyết ở các khái niệm này là chưa khẳng định được BTTH do vi phạm hợp đồng là một loại “chế tài” hay một loại “trách nhiệm pháp lý” của người có hành vi gây thiệt hại. Nhóm tác giả cũng chưa có sự phân tích, đánh giá để khẳng định việc sử dụng cụm từ “chế tài” hay “trách nhiệm pháp lý” đối với vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng.
Không giống như các tác giả ở trên, tác giả Bùi Thị Thanh Hằng lại có cách tiếp cận hoàn toàn mới khi nghiên cứu BTTH do vi phạm hợp đồng dưới góc độ của một biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm. Theo đó, tác giả Bùi Thị Thanh Hằng cho rằng: “BTTH do vi phạm hợp đồng là biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng, nhằm bảo đảm cho trách nhiệm dân sự theo hợp đồng được thực hiện bằng cách bù đắp những tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng do bên vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”20.
Thứ hai, về bản chất và đặc trưng của TNBTTH do vi phạm HĐTM. Việc nghiên cứu để chỉ ra bản chất của TNBTTH do vi phạm HĐTM là một nội dung quan trọng, góp phần xác định hướng nghiên cứu đúng đắn cho các nhà nghiên cứu. Thực tế cho thấy đã có một số công trình khoa học đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn như: Tác giả Nguyễn Thị Khế khẳng định: “Về bản chất, hình thức chế tài này là khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất cho bên bị vi phạm”21. Cách tiếp cận này ngắn gọn, khẳng định BTTH là khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất. Trong khi đó, tác giả Bùi Thị Thanh Hằng lại khẳng định rằng: “BTTH có bản chất chung của các biện pháp khắc phục là một phương thức bảo vệ quyền phát sinh từ hợp đồng. Tuy nhiên, khác với các biện pháp khắc phục khác, bản chất của BTTH do vi phạm hợp đồng là phương thức bảo vệ quyền cho phép bù đắp cho bên bị thiệt hại toàn bộ thiệt hại mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng gây ra nhằm đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà bên này đáng lẽ đạt được nếu hợp đồng được thực hiện đúng”22. Theo cách tiếp cận này, tác giả khẳng định bản chất của BTTH là phương thức bảo vệ quyền phát sinh từ hợp đồng.
Ngoài việc chỉ ra bản chất của TNBTTH do vi phạm HĐTM, một số công trình nghiên cứu đã công bố cũng đề cập đến một số đặc trưng của TNBTTH do vi p hạm
20 Bùi Thị Thanh Hằng (2018), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.31.
21 Nguyễn Thị Khế (2008), Một số ý kiến liên quan đến các quy định về chế tài trong thương mại theo quy định của Luật thương mại, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, (số 1), tr.43-46.
22 Bùi Thị Thanh Hằng, Tlđd, tr.33.