Mối Quan Hệ Nhân Quả Giữa Hành Vi Và Hậu Quả Của Tội Phạm

Hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt trong Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi gian dối tạo điều kiện cho hành vi chiếm đoạt được thực hiện một cách công khai, dễ dàng. Trong thực tế có những biểu hiện gian dối nhằm mục đích khác không phải là hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước, sau đó mới diễn ra việc bàn giao tài sản giữa người bị hại và người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay sau hành vi gian dối, nhưng cũng có trường hợp giữa hai hành vi này lại có khoảng cách nhất định về thời gian. Ở đây cần chú ý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ coi là hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt xảy ra.

Như vậy hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tương tự với hành vi khách quan của nhiều tội khác. Vì vậy để định tội danh chính xác phải đặt hành vi khách quan trong mối liên hệ với các yếu tố khác, nghiên cứu một cách toàn diện các yếu tố của cấu thành tội phạm [20].

2.2.2. Hậu quả của tội phạm

Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. “Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ” [14, tr. 152]. Bất kỳ một tội phạm nào cũng gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho khách thể của tội phạm. Tính chất và

mức độ của thiệt hại do tội phạm gây ra chịu sự quy định của tính chất, của quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và mức độ biến đổi các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội ấy. Trong số các hậu quả do hành vi phạm tội gây ra chỉ hậu quả nào được nêu ra trực tiếp trong nội dung điều luật quy định cấu thành tội phạm mới có ý nghĩa là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt. Các hậu quả khác được xem xét khi giải quyết trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt với tội phạm đã được thực hiện. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một biểu hiện thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa không giống nhau trong các cấu thành tội phạm khác nhau. Những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, luật hình sự quy định hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Nếu lỗi thuộc mặt chủ quan của cấu thành tội phạm này là cố ý trực tiếp thì hậu quả nêu ra trong điều luật quy định tội phạm là căn cứ xác định tội phạm hoàn thành, thời điểm xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội là thời điểm tội phạm hoàn thành, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa gây ra hậu quả được chỉ ra trong điều luật quy định tội phạm thì tội phạm ở giai đoạn chưa đạt. Nếu tội phạm đó có lỗi là vô ý thì xuất hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong điều luật quy định tội phạm là căn cứ xác định hành vi đã thực hiện là cấu thành tội phạm, khi hậu quả chưa xảy ra thì không coi là tội phạm. Những tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, luật hình sự không quy định hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một dấu hiệu của cấu thành tội phạm, vì vậy hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu định tội và cũng không phải là căn cứ xác định tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, tính chất và mức độ của thiệt hại cụ thể đã gây ra cho xã hội có ý nghĩa quan trọng khi quyết định hình phạt. Điều này không có ý nghĩa là những tội phạm có cấu thành hình thức không gây ra hậu quả quả nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện ở chỗ hành vi phạm tội đã gây ra hoặc đe dọa gây ra

thiệt hại cho xã hội, nhưng với những tội phạm có cấu thành vật chất thì hậu quả nguy hiểm cho xã hội cụ thể được nhà làm luật quy định là một căn cứ có ý nghĩa quyết định khi xác định một hành vi là tội phạm hay xác định một tội phạm đã thực hiện là hoàn thành; còn trong các cấu thành tội phạm hình thức, hành vi được nêu ra trong điều luật quy định tội phạm đã thể hiện đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đó, sự thực hiện hành vi đó rõ ràng đã làm thay đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm và gây thiệt hại cho khách thể. Sự thực hiện hành vi đủ cho phép kết luận là phạm tội và tội phạm hoàn thành.

Hậu quả của tội phạm thể hiện ở chỗ hành vi nguy hiểm cho xã hội đã tác động làm thay đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, sự thay đổi này có thể được nhà làm luật quy định cụ thể trong nội dung cấu thành tội phạm hoặc có thể không được quy định cụ thể vào nội dung cấu thành tội phạm cụ thể.

Theo qui định của Điều 139 Bộ luật hình sự, hậu quả của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, nghĩa là trong cấu thành tội phạm có phản ánh dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, vì có những trường hợp hậu quả chưa xảy ra vẫn có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ví dụ như trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Hậu quả của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thông qua thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chính vì vậy việc xác định tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, đây là dấu hiệu định lượng để xác định cấu thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định ở Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

2009 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở mức 2 triệu đồng là mức nguy hiểm đáng kể làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên luôn cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 2 triệu đồng thì phải kèm theo là gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà vi phạm mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt. Do đó cần lưu ý một số điểm sau đây trong việc xác định giá trị tài sản đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng - 7

Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định căn cứ vào kết luận của Hội đồng định giá do cơ quan tố tụng tiến hành kết luận về giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì, nhãn mác của tài sản đó, giá trị tài sản đó theo thời giá vào thời điểm tài sản bị xâm phạm, tài sản đó còn bao nhiêu phần trăm giá trị sử dụng… để có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị xâm phạm.

Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm. Ví dụ chiếm đoạt tiền hoặc giấy tờ có giá. Nếu người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không quan tâm đến giá trị của tài sản bị chiếm đoạt thì căn cứ vào giá trị thực của tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự như: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án nhưng chưa xóa án tích…, đồng thời trong các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính. Nếu tổng giá trị tài sản của các lần chiếm đoạt bằng hoặc trên mức 2 triệu đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:

- Các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian;

- Việc thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản chiếm đoạt được làm nguồn sống chính

- Với mục đích chiếm đoạt, nhưng do điều kiện khách quan nên việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị chiếm đoạt mỗi lần dưới 2 triệu đồng.

Ngoài hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu định tội được phân tích ở trên thì thực tế hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn gây hậu quả nguy hiểm khác, đó là những thiệt hại về tài sản, về thể chất hoặc những hậu quả phi vật chất khác diễn ra ở những cấp độ khác nhau thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những hậu qủa này thường phát sinh do việc tài sản bị chiếm đoạt (có mối quan hệ nhân quả giữa việc tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả). Do đó việc xác định hậu quả là thiệt hại về tài sản thì phải xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Hậu quả phi vật chất ở đây được biểu hiện là những ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây ảnh

hưởng lớn đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những hậu quả phát sinh này, tùy từng vụ án, tình hình cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đã gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự hay để làm căn cứ quyết định hình phạt theo Điểm g Khoản 2, Điểm b Khoản 3 và 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

2.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm

Việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ xác định hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi lừa đảo với hậu quả đó. Vì con người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó do chính hành vi của mình gây ra. Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và hậu quả tội phạm được biểu hiện như sau:

- Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt

- Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội.

Vì vậy việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội mà còn có ý nghĩa trong quyết định hình phạt.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể" [6, tr. 38]. Xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân, mục đích của các biện pháp trách nhiệm hình sự là giáo dục, cải tạo cá nhân cụ thể đã thực hiện tội phạm, luật hình sự Việt nam không thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Trường

hợp người có chức vụ, quyền hạn trong các pháp nhân đã điều hành hoặc lợi dụng địa vị pháp lý của pháp nhân gây thiệt hại cho xã hội thì trách nhiệm hình sự đạt ra với những cá nhân đó chứ không phải cho pháp nhân.

Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, đang sống. Người đã chết không thể là chủ thể của tội phạm. Nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự với người đã chết mặc dù trước đó người này đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Một người sẽ trở thành chủ thể của tội phạm nếu họ có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi mà luật hình sự quy định. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện để chủ thể có lỗi. Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện ở năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi mà người đó thực hiện và năng lực điều khiển hành vi của mình theo những đòi hỏi và chuẩn mực xã hội. Một người nhận thức và điều khiển được hành vi của mình thì mới có khả năng tiếp thu được những biện pháp tác động mang tính giáo dục của xã hội và nhà nước mới đặt vấn đề giáo dục, cải tạo với họ. Năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của con người không thể có ngay từ khi mới sinh ra, nó được hình thành từng bước theo thời gian trong quá trình sống và hoạt động xã hội của chủ thể, khi chủ thể đạt tới đội tuổi nhất định. Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là hai điều kiện của chủ thể tội phạm, hai dấu hiệu bắt buộc của chủ thể tội phạm. Tuy nhiên, ngoài hai dấu hiệu bắt buộc và phổ biến này của chủ thể, một số tội phạm đòi hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu bắt buộc khác, trường hợp này được gọi là chủ thể đặc biệt.

Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo quy định của luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở

trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13, Bộ luật hình sự. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự cụ thể như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [22, Điều 12].

Vì vậy, theo quy định của Điều 12 Bộ luật hình sự chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải là:

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự.

Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có hành vi thuộc khoản 3, khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự.

Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên không ngoại trừ chủ thể là người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực hiện hành vi lừa đảo trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một số người được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Ngoài ra khi nghiên cứu về chủ thể của tội phạm này cũng cần chú ý tới đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hóa, kinh tế, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như các biện pháp đấu tranh phòng người tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ngày đăng: 12/11/2023