Thực Tiễn Áp Dụng Hình Phạt Đối Với Tội Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Sức Khỏe Cho Người Khác:

- Vật gây thương tích: Vật sắc nhọn.

Vật chứng vụ án: 01 con dao Thái Lan cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoản 20cm do Đăng sử dụng gây thương tích đối với Tiến; Sau khi gây án, Đăng đã vứt mất nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hải Đăng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của nhân chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đầy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/02/2017, tại quán cà phê Hữu Gia ở Khu phố 4A, phường Tân Hòa, thành phố Biên Hòa, Nguyễn Hải Đăng đã vô cớ dùng 01 con dao Thái Lan cán nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoản 20cm, đâm 01 nhát trúng lưng trái anh Bùi Huy Tiến gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 26%.

Việc bị cáo gây thương tích cho anh Tiến đã gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của anh Tiến; xâm phạm sức khỏe con người, là khách thể được pháp luật Hình sự bảo vệ. Bị cáo đủ sức khỏe và trình độ nhận thức để biết được việc gây thương tích cho người khác là bị pháp luật cấm nhưng chỉ vì sự nghi ngờ, đố kỵ lẫn nhau trong cuộc sống mà bị cáo đã cố tình vi phạm pháp luật. Mâu thuẫn giữa các bên là mâu thuẫn nhỏ không đáng có nhưng bị cáo Đăng đã thù hận cố tình phạm tội, từ đó cho thấy hành vi của bị cáo có tính chất côn đồ; bị cáo dùng dao Thái Lan đây được xem là hung khí nguy hiểm. Do đó, việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, truy tố bị cáo Nguyễn Hải Đăng về tội “Cố ý gây thương tích” với các tình tiết định khung tăng nặng gồm “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, điểm i, khoản 1 và khoản 2 Điều 104 là có cơ sở, đúng người, đúng tội.

Bản án số 441/2017/HSST ngày: 28/9/2017. TAND TP. Biên Hòa Quyết định bị cáo Nguyễn Hải Đăng phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a; i khoản 01 và khoản 02 Điều 104;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải Đăng 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12/05/2017.

- Định tội danh theo quy định tại khoản 3 Điều 104 BLHS: Các tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại khoản 3 Điều 104 BLHS tương tự như cấu thành cơ bản, vẫn phải định tội theo các yếu tố cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chỉ khác về mức độ hậu quả xảy ra thuộc về dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm. Hậu quả do hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thương tật từ 61% trở lên hoặc từ 31% đến 60%, thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS. Tòa án đã áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự trong xác định mặt khách thể, khách quan, chủ quan và chủ thể của tội phạm.

Ví dụ như: Khoảng 13 giờ ngày 02/7/2017, bị cáo Lê Văn Hào điều khiển xe mô tô va quẹt vào quầy hàng của chị Giáp Thị Mỹ Trinh dẫn đến việc hai bên cãi vã, bị cáo Hào dùng trái dừa ném trúng mặt làm mẻ răng số 27 của chị Trinh. Khoảng 13 giờ 30 cùng ngày, chị Trinh cùng bà Nguyễn Thị Kim Trang (mẹ Trinh), anh Hoàng Tuấn Anh (bạn trai Trinh) đem theo gậy tre đến trước nhà Hào tại số nhà 242/5, khu phố 2, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chị Trinh, anh Tuấn Anh có lời lẽ thiếu tế nhị, thách thức đánh nhau với Hào, Hào dùng roi điện, dao, anh Tuấn Anh dùng gậy tre đánh nhau. Sau đó, Hào dùng 01 can nhựa loại 05 lít bên trong có khoảng 01 lít axit Sunfuric đậm đặc hắt axit Sunfuric trúng vào người chị Trinh, chị Giáp Thị Mỹ Trâm (em gái Trinh), anh Tuấn Anh và ông Giáp Văn Cường (cha Trinh). Hậu quả chị Giáp Thị Mỹ Trinh bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 62%, chị Giáp Thị Mỹ Trâm bị thương tích với tỷ lệ thương tật

là 36%, anh Hoàng Tuấn Anh bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 28%, ông Giáp Văn Cường bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 18%.

Trong vụ án chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt đời thường mà bị cáo đã sử dụng axit Sunfuric đậm đặc hắt axit Sunfuric trúng vào cơ thể bốn người bị hại. Hành vi của bị cáo theo cáo trạng của VKSND thành phố Biên Hòa đã viện dẫn và truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo đã sử dụng hung khí nguy hiểm gây nguy hại cho nhiều người là các tình tiết định khung quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 và khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ, sung năm 2009. Vì vậy, việc đưa ra xét xử và tuyên bị cáo một mức hình phạt tù thật nghiêm là việc làm cần thiết, vừa giáo dục bị cáo, vừa răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

Bản án số 176/2018/HS-ST ngày 31/5/2018. TAND TP. Biên Hòa Quyết định bị cáo Lê Văn Hào phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 và khoản 3 Điều 104; điểm b, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ, sung năm 2009. Ngày 20/6/2017 Quốc hội có Nghị quyết 41/2017/QH14.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn Hào 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 03/7/2017.

2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác:

2.2.1. Cơ sở lý luận của quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác:

Quyết định hình phạt là một trong những hoạt động quan trọng, từ nhận thức thực tiễn và áp dụng pháp luật hình sự của toà án mà cụ thể ở đây là hội đồng xét xử để đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, quyết định hình phạt được thực hiện sau khi đã định tội danh chính xác. Đây là giai đoạn thực hiện trong quá trình xét xử yêu cầu hình phạt phải phù hợp với mức độ tính nguy hiểm

của hành vi mà bị cáo gây ra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ, nhân thân, quan điểm của những người tham gia tố tụng và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định trong Bộ luật hình sự, vừa có tính răng đe, vừa giáo dục, vừa có tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. Mặc dù hiện tại văn bản pháp luật hình sự ở nước ta chưa đưa ra khái niệm quyết định hình phạt nhưng trong khoa học pháp lý đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm quyết định hình phạt, phần lớn các tác giả đều cho rằng “Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn loại hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội”. Trên cơ sở phân tích pháp luật hình sự về quyết định hình phạt và quan điểm khoa học pháp lý của nhiều tác giả qua những thời kỳ, có thể nhận thấy quyết định hình phạt có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất: QĐHP được thực hiện sau khi đã định tội danh đó là hoạt động nhận thức về thực tiễn của hội đồng xét xử. Hay nói cách khác quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức thực tiễn của toà án.

Thứ hai: QĐHP dựa trên cơ sở bộ luật hình sự do toà án quyết định.

Thứ ba: Nội dung QĐHP là toà án có thế miễn trách nhiệm hình sự, khi có đủ căn cứ xác định người đó không phạm tội và đương nhiên không phải chịu hình phạt về tính chất và hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Trường hợp toà án quyết định hình phạt thì quyết định hình phạt bao gồm: xác địnhh khung hình phạt (có thể) và hình phạt cụ thể cho người phạm tội như vậy có nghĩa miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và truy cứu trách nhiệm hình sự đều thuộc thẩm quyền của toà án.

Thứ tư: QĐHP chỉ áp dụng cho những hành vi phạm tội đối với cá nhân, đảm bảo về mặt chủ quan của tội phạm. Qua những nội dung đã phân tích trên tác giả đồng ý với quan điểm về khái niệm quyết định hình phạt như sau:

“Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức thực tiễn của toà án (cụ thể là hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để

định ra biện pháp xử lý. Tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự. Nếu toà án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phạt bao gồm việc xác định khung hình phạt và xác định hình phạt cụ thể trong phạm vi luật cho phép đối với bị cáo” trên thực tiễn quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức thực tiễn của toà án, thẩm quyền của toà án tuy nhiên trong hoạt động này lại chịu ảnh hưởng rất lớn về kết quả của các cơ quan khác như: Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, cơ quan giám định…là vô cùng quan trọng để có thể quyết định hình phạt một cách đúng đắn, chính xác một phần có ảnh hưởng từ kết quả của các cơ quan liên quan trong công tác điều tra, truy tố phải thật sự công tâm, trong sáng, khách quan, trung thực trong thực thi công vụ của mình. Từ khái niệm đặc điểm nêu trên việc quyết định hình phạt chính xác và đúng đắn sẽ mang lại ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm mang lại sự công bằng cho xã hội nói chung và ngành toà án nói riêng.

Bởi thứ nhất: quyết định hình phạt đúng pháp luật của hội đồng xét xử là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt về tính công minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, thân nhân người phạm tội.

Thứ hai: Đảm bảo nâng cao hiệu quả của hình phạt là cơ sở pháp lý của quyết định hình phạt đúng.

Thứ ba: Để đảm bảo tính khả thi của hệ thống hình phạt thì quyết định hình phạt phải đúng.

2.2.2. Tình hình quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 - 2019:

Quyết định hình phạt là một giai đoạn, mỗi nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện qua việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể đã

quy định trong từng khoản, điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.

Từ bản số liệu sau đây đã khái quát về tình hình quyết định hình phạt về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hai sức khỏe của người khác trong năm qua tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Bảng 2.5: Hình phạt do Tòa án Cấp sơ thẩm áp dụng


Năm

Tổng số bị can

Hình phạt

Dưới 3

năm

Từ 3 đến dưới 7

năm

Từ 7 đến dưới

8 năm

Từ 8 đến 15

năm

Án treo

Cải tạo không giam

giữ

Hình phạt khác

2015

189

30

104

4

3

28

20

0

2016

173

24

91

3

0

26

29

0

2017

152

19

82

4

3

18

16

0

2018

132

21

77

2

1

17

14

0

2019

151

26

81

2

3

19

20

0

Tổng

797

120

435

15

10

108

99

0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 7

Điều 45 BLHS quy định “Khi QĐHP, Tòa án căn cứ vào các quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng năng TNHS” mặc dù các căn cứ là rò ràng theo luật định, song thực tiễn THTT cũng còn nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ như việc định khung hình phạt, QĐHP từng người đồng phạm trong vụ án có nhiều người tham gia, việc QĐHP đối với các trường hợp người bị hại được bồi thường và đươc bị hại bãi nại, việc xác định đồng phạm và đánh giá chứng cứ để xác định người phạm tội.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác có 4 khung hình phạt. Trong đó, Khung 4 là tội đặc biệt nghiêm trọng có hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân. Khung 3 là tội rất nghiêm trọng có hình phạt tù từ 5 năm đến 15 năm. Khung 2 là tội nghiêm trọng có hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Khung 1 là tội ít nghiêm trọng có hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Ngoài ra Tòa án có thể áp dụng các quy định khác của BLHS như quy định tại Điều 47, Điều 69… có mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt của khung hình phạt mà Điều luật quy định hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn. Bởi quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật TTHS thì khung 4 không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện.

2.2.3. Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo cấu thành tội phạm cơ bản

Việc quyết định hình phạt đã căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, khi áp dụng: khoản 1 Điều 104; Điều 46 quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS; Điều 47 quy định về QĐHP nhẹ hơn quy định của BLHS và các quy định có liên quan; căn cứ vào khách thể bị xâm hại, hành vi cụ thể, hậu quả của hành vi phạm tội, lỗi… Để xem xét đánh giá, QĐHP cho phù hợp với từng trường hợp phạm tội. Từ quy định ở khoản 1 Điều 104 thì “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm…”.

Hình phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hầu như không được áp dụng đối với cấu thành cơ bản của tội phạm này.

Việc QĐHP ở cấu thành cơ bản của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, theo nghiên cứu các bản án có kháng cáo thì phát hiện một số vấn đề như sau:

+ Tòa án cấp sơ thẩm khi QĐHP đã bỏ sót các tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo dẫn đến việc tuyên hình phạt nặng hơn so với quy định của BLHS.

Thực hiện nghiên cứu các bản án cho thấy các bị cáo bị áp dụng án treo là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật. Tuy vậy vẫn có một số trường hợp áp dụng án treo không đúng với các quy định của pháp luật, với cuộc khảo sát các bản án có kháng cáo về hình phạt đã tuyên chủ yếu xuất phát từ việc TA cấp sơ thẩm khi xét xử đã bỏ sót các tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo, dẫn đến việc tuyên hình phạt nặng hơn so với quy định của BLHS.

2.2.4. Quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo cấu thành tội phạm tăng nặng (trừ khoản 4)

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 đối với cấu thành tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:

Việc quyết định hình phạt theo khoản này, Tòa án cũng căn cứ vào những yếu tố tương tự khoản 1, tuy nhiên việc QĐHP khó khăn hơn so với khoản 1, đối với hình phạt được áp dụng khi các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trường hợp hình phạt được áp dụng là hình phạt tù, mức tối đa là 7 năm tù, mức tối thiểu là 2 năm tù, chênh lệch giữa mức tối đa và mức tối thiểu là 5 năm tù. Chênh lệch này của khung hình phạt là quá lớn. Do đó trong thực tế khi áp dụng các quy định về vấn đề này cũng có những khó khăn.

Khi thực hiện khảo sát đã cho thấy không có trường hợp nào Tòa phúc thẩm tăng hình phạt tù có thời hạn đã được Tòa sơ thẩm tuyên.

- Theo quy định tại khoản 3 Điều 104 với cấu thành tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Việc quyết định hình phạt cũng có tình trạng như đối với khoản 2 của Điều 104 BLHS. Quy định tại khoản 3, thì phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chênh lệch giữa mức tối thiểu và mức

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí