Cơ Sở Lí Luận Và Thực Tiễn Liên Quan Đến Tổ Chức Lãnh Thổ Du Lịch


Các công trình trên đã khẳng định công tác qui hoạch du lịch ở địa phương đang bắt đầu được qua tâm. Nghiên cứu TCLT du lịch huyện sẽ là công trình có ý nghĩa thực tiễn, góp phần thúc đẩy du lịch của huyện phát triển bền vững.

4. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu

4.1. Các quan điểm

- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ: Cũng như bất cứ một vùng lãnh thổ nào trên trái đất, hệ thống lãnh thổ huyện Xuyên Mộc được thành tạo bởi nhiều yếu tố: tự nhiên, văn hóa, lịch sử…Các yếu tố này có quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Vì vậy, tất cả các yếu tố đó luôn luôn được xem xét, đánh giá trong mối quan hệ tổng thể.

- Quan điểm hệ thống: Du lịch huyện Xuyên Mộc được xem là một bộ phận quan trọng của du lịch tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Trong đề án qui hoạch tổng thể các khu du lịch BÀ Rịa-Vũng Tàu đến năm 2020 đã xác định cụm du lịch Bình Châu (huyện Xuyên Mộc) là một trong 4 cụm du lịch chính của tỉnh; và tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là một trong những địa bàn trọng điểm trong vùng du lịch Đông Nam Bộ và Nam Bộ, có nhiều điểm, khu, tuyến du lịch có tầm quốc gia. Quan điểm hệ thống được sử dụng cho phép tác giả phân tích, tổng hợp để thiết kế các tuyến du lịch hấp dẫn và khả thi.

- Quan điểm lịch sử: Vận dụng quan điểm lịch sử trong nghiên cứu hệ thống lãnh thổ để tìm hiểu nguồn gốc phát sinh, các quá trình diễn biến theo thời gian và không gian trên từng địa bàn cụ thể, trên cơ sở đó hiểu rõ những sự kiện có thật trong lịch sử để rút ra được những bài học kinh nghiệm áp dụng cho hoạt động du lịch. Quán triệt quan điểm lịch sử để có được những nhận định, những dự báo phát triển không sai lệch và tổ chức du lịch trên lãnh được thực hiện trong xu thế phát triển chung của Việt Nam và thế giới.

- Quan điểm phát triển bền vững: Quan điểm này được xuyên suốt trong nội dung của luận văn. Giáo sư Raoul Blanchard (Grenoble 1890) cho rằng: “Du lịch là một ngành kinh doanh, kinh doanh các danh lam thắng cảnh của đất nước”[22]. Việc kinh doanh này đã dẫn đến việc gia tăng các thiệt hại về môi trường như ô


nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, tài nguyên du lịch có thể bị xâm phạm, do đó cần phải tính đến yếu tố phát triển bền vững khi sử dụng tài nguyên du lịch, có nghĩa là phải tính đến hậu quả lâu dài sẽ nảy sinh trong tương lai.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

- Quan điểm thực tiễn: Quan điểm thực tiễn được vận dụng để đánh giá đặc điểm, hiện trạng sử dụng lãnh thổ cũng như trong việc đề xuất định hướng sử dụng hợp lí tài nguyên lãnh thổ với những khuyến nghị và giải pháp có tính khả thi. Tất cả những giải pháp đưa ra đều được xuất phát từ thực tiễn. Trên thực tế, công tác TCLT du lịch huyện Xuyên Mộc còn nhiều hạn chế. Nhiều điểm du lịch khai thác không hiệu quả, ẩn chứa nhiều yếu tố thiếu bền vững. Nhiều điểm du lịch tài nguyên khá hấp dẫn và độc đáo nhưng sản phẩm du lịch còn đơn điệu hay là quá xa đường quốc lộ, hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật còn nhiều hạn chế nên chưa có doanh thu…

4.2. Các phương pháp nghiên cứu

Tổ chức lãnh thổ du lịch huyện Xuyên Mộc Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - 3

- Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu

Đây là phương pháp quan trọng và xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận án. Những thông tin, các nguồn tài liệu, văn liệu cho phép chúng ta hiểu biết những thành tựu nghiên cứu về lĩnh vực này. Việc phân tích, phân loại và tổng hợp các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu sẽ giúp ta dễ dàng phát hiện ra những vấn đề trọng tâm cũng như những vấn đề còn đang bỏ ngỏ. Trên cơ sở những tài liệu phong phú đó, việc tổng hợp sẽ giúp chúng ta có một tài liệu toàn diện, khái quát về vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt hiện nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh, việc khai thác các nguồn tài liệu quan trọng qua mạng Internet sẽ là nguồn tư liệu quý hỗ trợ cho việc tổng hợp các vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu thực địa

Trong quá trình nghiên cứu thực địa tác giả đã tiến hành khảo sát ở tất cả các điểm, khu, tuyến du lịch hiện đang hoạt động của huyện. Các khu vực khảo sát đều được nghiên cứu ghi chép, đánh giá so sánh về tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, trên cơ sở đó có thể đánh giá cụ thể bằng điểm số. Các điểm du lịch đến thực địa đều có tham khảo ý kiến các chuyên gia, các già làng, nhân dân


địa phương... Các ý kiến đó đều được chọn lọc, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá và rút ra những nhận định sát với thực tiễn.

- Phương pháp phân tích số liệu thống kê

Nghiên cứu hoạt động du lịch có rất nhiều số liệu ở nhiều lĩnh vực như lượng khách, doanh thu, đầu tư…Các số liệu đó đều mang tính định lượng. Nghiên cứu, phân tích các số liệu này để có những nhận định, đánh giá khoa học, phù hợp với thực tế.

Các số liệu được sử dụng trong luận văn chủ yếu từ chi cục thống kê huyện và Sở Thương mại – Du lịch (Nay là sở Văn hóa Thể thao và Du lịch) cung cấp. Trên cơ sở nguồn số liệu đó tác giả tiến hành xử lí, phân tích để có những dự báo trong tương lai phù hợp, đồng thời có thể xây dựng được bản đồ, biểu đồ và đưa ra được những kết luận chân thực, chính xác.

- Phương pháp bản đồ

Việc trình bày những dữ kiện du lịch trên bản đồ là rất cần thiết giúp cho việc nắm được những thông tin quan trọng, cập nhật, đáp ứng cho việc đi lại, tham quan, giải trí, ăn ở. Để xây dựng được bản đồ, đề tài có sử dụng bản đồ chức năng như bản đồ hành chính, bản đồ giao thông vận tải, dân cư, tài nguyên du lịch... và các số liệu nghiên cứu. Phương pháp này được áp dụng với sự trợ giúp của hệ thống thông tin địa lí GIS.

- Phương pháp dự báo

Công tác dự báo dựa trên việc tính toán của tác giả trên những cơ sở thực tiễn và những tiềm năng của từng điểm, từng khu du lịch, có tham khảo thêm Qui hoạch phát triển du lịch huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 của Phân viện qui hoạch Đô thị Nông thôn Miền Nam- Viện kiến trúc, Quy hoạch đô thị nông thôn-Bộ Xây Dựng. Các tính toán dự báo chủ yếu ở phương án trung bình, đó là phương án khả thi và phù hợp với thực tiễn huyện Xuyên Mộc.


5. Những đóng góp của luận văn

- Phân tích được các nguồn lực chính và thực trạng phát triển du lịch.

- Đánh giá các hình thức TCLT du lịch (điểm, khu, tuyến du lịch) của huyện Xuyên Mộc.

- Đề xuất được định hướng và các giải pháp cụ thể để TCLT du lịch huyện Xuyên Mộc có hiệu quả hơn.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương với tổng số 99 trang đánh máy.

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến tổ chức lãnh thổ du lịch

Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng tổ chức lãnh thổ du lịch huyện Xuyên Mộc

Chương 3: Định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ du lịch huyện Xuyên

Mộc


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH‌


1.1. Cơ sở lý luận của tổ chức lãnh thổ du lịch‌

1.1.1. Một số khái niệm‌

1.1.1.1. Khái niệm về du lịch

Du lịch được hình thành rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, ngay từ thời cổ đại. Trải qua thời gian dài cùng với sự thay đổi của cấu trúc xã hội, sự phát triển kinh tế-xã hội của nhân loại, ngày nay du lịch đã trở thành một xu hướng phổ biến trên toàn cầu, thu hút nhiều nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Chính vì thế, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và khái niệm của từ này.

Song về cơ bản, nguồn gốc thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ gốc là cuộc hành trình đi một vòng, từ một nơi này đến một nơi khác và có quay trở lại. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch được giải nghĩa theo âm Hán – Việt: du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là sự từng trải.

Khái niệm về du lịch vẫn chưa có sự thống nhất nhưng theo thời gian các khái niệm này dần hoàn thiện. Giáo sư Hunziken và giáo sư Krapf (Thuỵ Sĩ) được xem là những người đặt nền móng cho lý thuyết về cung- cầu du lịch, đưa ra định nghĩa: “ Du lịch là tập hợp của các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. So với các quan niệm trước đây, khái niệm của Huziker và Krapf đã thể hiện đầy đủ và bao quát các hiện tượng du lịch. Tuy nhiên, khái niệm này chưa làm rõ đặc trưng của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch (các mối quan hệ nào và hiện tượng nào thuộc loại kinh tế,chính trị, xã hội , văn hóa…). Ngoài ra, định nghĩa bỏ xót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian, nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

Năm 1985 I.I Pirojnik định nghĩa: “Du lịch là một hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi thường trú


nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và xã hội” [13].

Thánh 6/1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị quốc tế về Thống kê du lịch cũng đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên ( nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch qui định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm”.

Hội nghị lần thứ 27( năm 1993) của Tổ chứ du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra khái niệm du lịch thay thế cho khái niệm năm 1963: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên (usual environment) của con người và ở lại đó để thăm quan nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm”.

Trong điều kiện của nước ta hiện nay, khái niệm được sử dụng phổ biến và công nhận rộng rãi là khái niệm trình bày trong Luật Du lịch Việt Nam được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”[12].

Về tầm quan trọng của hoạt động du lịch, có lẽ hàm xúc nhất đối với việc giữ gìn hoà bình thế giới là khái niệm đưa ra trong Tuyên bố Ô-sa-ca của hội nghị Bộ trưởng Du lịch thế giới: “Du lịch là con đẻ của hoà bình, là phương tiện cân bằng cán cân thanh toán quốc tế”[13].

Như vậy, du lịch là một dạng hoạt động của con người liên quan đến việc di chuyển chỗ ở đến một nơi khác trong một khoảng thời gian ngắn để thoả mãn việc nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu, khám phá.


Có nhiều hình thức du lịch khác nhau như du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hoá... Trong đó, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng có ý nghĩa lớn nhất đối với Xuyên Mộc. Phát triển các loại hình du lịch này vừa khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch, vừa đảm bảo cho sự phát triển bền vững, nhanh chóng xoá đói, giảm nghèo cho địa phương.

1.1.1.2. Sản phẩm du lịch

Theo Luật Du lịch Việt Nam ( năm 2005 ): “ Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”[12].

Hiểu một cách chung nhất, sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác tài nguyên du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

Sản phẩm du lịch bao gồm hai bộ phận: Dịch vụ du lịch và Tài nguyên du lịch

-Dịch vụ du lịch gồm có:

+Dịch vụ lữ hành;

+ Dịch vụ vận chuyển;

+ Dịch vụ lưu trữ, ăn uống;

+ Dịch vụ vui chơi, giải trí

+ Dịch vụ mua sắm

+ Dịch vụ thông tin, hướng dẫn

+ Dịch vụ trung gian và Dịch vụ bổ sung.

-Tài ngyên du lịch gồm có:

+Tài nguyên du lich tự nhiên;

+Tài nguyên du lịch nhân văn.

1.1.2. Tổ chức lãnh thổ du lịch‌

1.1.2.1. Khái niệm

-Tổ chức lãnh thổ

Theo Morrille (1970), “Tổ chức không gian là kinh nghiệm của loài người về sử dụng có hiệu quả không gian trên Trái đất” [13]. Các tác giả Pháp như P. Brunet,


J. Monod (1980), Jean Paud Gaudemar (1992) cho rằng: “Tổ chức không gian là sự tìm kiếm một phân bố tối ưu về người, các hoạt động và tài sản nhằm tránh sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay một vùng” [13].

Ngay từ những năm 1965, để thúc đẩy phát triển kinh tế có hiệu quả, các nhà khoa học Xô Viết đã khẳng định sự cần thiết phải kết hợp tối ưu việc kế hoạch hoá theo ngành và theo lãnh thổ nhằm đảm bảo kế hoạch hoá tổng hợp và giải quyết những vấn đề kinh tế quốc dân to lớn.

Khái niệm về kế hoạch hoá lãnh thổ ở đây chính là vấn đề TCLT. Về khía cạnh địa lí: TCLT là một hành động của địa lí học nhằm hướng tới một sự công bằng về mặt không gian để khai thác không gian du lịch hợp lí và có hiệu quả.

TCLT là nghệ thuật sử dụng, khai thác lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả. Nghệ thuật sử dụng này phải đảm bảo được hiệu quả về KTXH và môi trường.

Ở Việt Nam, Các nhà kế hoạch hoá và các nhà địa lí kinh tế thường dùng khái niệm TCLT. TCLT được hiểu như toàn bộ quá trình hay hành động của con người nhằm phân bố các cơ sở sản xuất và dịch vụ, phân bố dân cư, sử dụng tự nhiên, có tính đến các mối quan hệ, liên hệ của chúng. Các hành động này được thực hiện phù hợp với các mục tiêu của xã hội và trên cơ sở các quy luật kinh tế hoạt động trong hình thái KT-XH tương ứng. Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế là cải thiện cơ cấu tổ chức sản xuất của đất nước hay của từng vùng cụ thể. TCLT cũng nhằm phát triển tổng hợp, có hiệu quả cao của nền sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Có thể nói, TCLT KT-XH là một biện pháp quan trọng vì mục tiêu phát triển bền vững.

Tổ chức lãnh thổ, về đại thể, là sự kiến thiết lãnh thổ. Trong một lãnh thổ có rất nhiều thành phần (bộ phận) về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội... Vấn đề ở chỗ là phải tổ chức như thế nào để đạt được mục tiêu phát triển KTXH. Trên cơ sở đó, TCLT được hiểu là sự sắp xếp các thành phần (đã đang và dự kiến sẽ có) trong mối liên hệ đa ngành, đa lãnh thổ ở một vùng nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực để đạt hiệu quả cao nhất về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững.

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 07/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí