đầu ra, nhu cầu về lương thực và thực phẩm trong nước cũng như trên thế giới ngày càng tăng, do tốc độ tăng dân số cũng như chất lượng cuộc sống nhìn chung đang ngày càng cải thiện. Ngoài ra, thời gian qua Nhà nước có nhiều chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nền nông nghiệp nước ta nói chung và Nam Trung Bộ nói riêng đã có những phát triển nhảy vọt, năng suất cây trồng tăng lên vượt bậc chất lượng sản phẩm cũng gia tăng. Lợi thế về tự nhiên, xã hội, thị trường và chính sách của ngành nông nghiệp là cơ hội cho hoạt động tín dụng ngân hàng phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ biến thúc đẩy nhu cầu vốn tín dụng để chuyển đổi hình thức sản xuất công nghệ cao. Trước đây, người nông dân sản xuất nông nghiệp theo hình thức truyền thống, thủ công mô hình nhỏ lẻ nên nhu cầu vay vốn cho sản xuất chưa cao. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, nền nông nghiệp, nông dân và nông thôn cũng từng bước chuyển mình để đáp ứng được yêu cầu cao hơn về năng suất và chất lượng. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật như sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến, cơ giới hoá các khâu trong sản xuất nông nghiệp như tưới nước, làm sạch nông sản, các khâu sơ chế, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản sau thu hoạch cũng được ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến. Điều này làm cho giá trị đầu tư sản xuất kinh doanh tăng cao và trở nên quá lớn so với khả năng tiết kiệm của người dân nông thôn, tất yếu dẫn đến nhu cầu vay vốn của người dân nông thôn ngày càng gia tăng.
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm tới việc thúc đẩy và phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ một trong những giải pháp nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là “phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, trong đó tập trung: (1) Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu; (2) đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền
nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững; đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống nông dân; (3) chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ chức nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao; (4) chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hoá một cách hợp lý”.
Nhận thức của chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội của các tỉnh Nam Trung Bộ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn hỗ trợ tích cực hơn quá trình mở rộng tín dụng đối với khu vực này. Hầu hết chính quyền địa phương đều nhận thức được tầm quan trọng của việc thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp nông thôn và hỗ trợ tích cực ngân hàng trong việc tuyên truyền về chính sách cũng như các chương trình cho vay của ngân hàng, hỗ trợ xác nhận các giấy tờ, thủ tục pháp lý liên quan như chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng nhận đất không có tranh chấp….
3.2.1.2. Thách thức
Nam Trung Bộ là một trong những vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, sự ấm lên toàn cầu, trong đó, ngành nông nghiệp là ngành ngày càng chịu tác động to lớn làm tăng thêm rủi ro đối với lĩnh vực chứa nhiều rủi ro này. Trong những năm gần đây có nhiều biểu hiện thời tiết cực đoan, không bình thường theo những quy luật chung lâu nay vẫn có như: có năm thì hạn hán nghiêm trọng, có năm thì bão to lụt lớn đã gây ra nhiều tổn thất to lớn đối với ngành nông nghiệp của vùng, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, sâu bệnh cây trồng phát sinh trên diện rộng làm gia tăng rủi ro đối với người nông dân và ngân hàng trong quá trình cho vay vốn.
Nhiều ngân hàng thương mại rất thận trọng trong việc giải quyết các hợp đồng vay vốn cho người dân xuất phát từ nguyên nhân cho vay nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực cho vay chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng từ các thảm hoạ thiên tai và sự yếu kém trong nhận thức từ phía những người dân. Hoạt động nông nghiệp từ trồng trọt, chăn nuôi gia
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Tín Dụng Theo Hình Thức Cho Vay Tại Agribank Nam Trung Bộ, Giai Đoạn 2014– 2019
- Tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng nông thôn mới các tỉnh Nam Trung Bộ - 20
- Định Hướng Về Xây Dựng Nông Thôn Mới Các Tỉnh Nam Trung Bộ
- Ngân Hàng Linh Hoạt Thực Hiện Yêu Cầu Đảm Bảo Tiền Vay Cho Khách Hàng
- Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Đảm Bảo Cho Vay Đúng Đối Tượng Đáp Ứng Nhu Cầu Của Người Dân Và Các Tổ Chức Kinh Tế Tham Gia Hoạt Động Nông
- Đối Với Sở, Ban, Ngành Và Chính Quyền Địa Phương
Xem toàn bộ 234 trang tài liệu này.
súc, gia cầm, làm thuỷ lợi đến nuôi trồng thuỷ sản, các làng nghề… đã và đang kéo theo nhiều hệ luỵ như: sử dụng phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật chưa đúng kỹ thuật đã gây tồn dư nhiều hoá chất độc hại trong môi trường đất và môi trường nước; nhiều vùng chăn nuôi tập trung, nhiều làng nghề sản xuất chưa có hệ thống thu gom và xử lý chất thải; việc khai thác nguồn lợi thủy sản không hợp lý đã ngày càng làm cạn kiệt; phát triển nuôi trồng thuỷ sản không theo quy hoạch dẫn đến ô nhiễm môi trường…Thị trường tài chính nước ta lại chưa phát triển các công cụ bảo hiểm đủ tốt để phòng vệ và hạn chế các loại rủi ro này. Phần đông hoạt động cho vay này thường được cung cấp bởi ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng chính sách. Ngoài ra, hệ thống mạng lưới chi nhánh của các ngân hàng tập trung chính tại các thành phố lớn, trung tâm công nghiệp trong khi đa phần chương trình xây dựng nông thôn mới diễn ra tại các vùng nông thôn lạc hậu nghèo nàn. Điều này làm cho việc tiếp cận vốn ngân hàng cũng như công tác quản lý khách hàng trong và sau khi cấp tín dụng bị hạn chế.
Có một thực tế là hiện nay trình độ sản xuất của bà con nông dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng, vật nuôi vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc; chưa kiểm soát tốt phân hoá học, phân bón; công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong quá trình hội nhập; diện tích đất vẫn còn manh mún vì vậy muốn sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó; giá thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp của vùng, tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” thường xuyên diễn ra, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người nông dân. Điều này khiến cho các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức tín dụng tỏ ra thận trọng hơn trong việc đầu tư vốn cho lĩnh vực này.
Tài sản bảo đảm là một trong những vướng mắc lớn nhất đối với hộ gia đình nông thôn trong quá trình tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Hộ gia đình ở các khu vực nông thôn không có tài sản thế chấp đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của ngân hàng. Đất đai, nhà cửa tại vùng nông thôn thường không đầy đủ về mặt pháp lý nên không đủ điều
kiện vay theo quy định của tổ chức tín dụng hoặc nếu đủ điều kiện cho vay thì giá trị của khoản vay cũng nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trường hợp các tài sản đảm bảo là các tài sản hình thành từ khoản vay như vật nuôi, cây trồng thì những tài sản này có thể gặp rủi ro do thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại về kinh tế cho người dân và tăng khả năng mất vốn của ngân hàng.
3.2.2. Định hướng về tín dụng ngân hàng đối với xây dựng nông thôn mới Nam Trung Bộ
- Chi nhánh NHNN các tỉnh Nam Trung Bộ đã chỉ đạo các TCTD trên địa bàn ưu tiên cấp tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. NHNN ban hành những chính sách thúc đẩy, định hướng các ngân hàng thương mại đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động tháo gỡ khó khăn, đổi mới quy trình, thủ tục cho vay nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng đối với lĩnh vực này là rất cần thiết.
- Ưu tiên bố trí nguồn lực, đồng thời phát huy nội lực của cộng đồng dân cư và xã hội để đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới một cách bền vững.
- Các TCTD tiếp tục thực hiện nghiêm túc quy định của NHNN về lãi suất cho vay đối với các nhóm lĩnh vực ưu tiên, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn khi mức trần lãi suất cho vay trong thời điểm hiện nay là 7%/năm. Trên tinh thần hỗ trợ tối đa cho khách hàng, một số TCTD trong vùng tự cân đối để triển khai nhiều chương trình cho vay lãi suất thấp hơn mức trần quy định đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
- Phát huy thế mạnh về mạng lưới chi nhánh và nguồn nhân lực, tăng cường tiếp cận, củng cố và phát triển khách hàng; tăng cường mối quan hệ hợp tác với các tập đoàn, tổ chức kinh tế lớn; duy trì giữ vững khách hàng truyền thống là cá nhân, hộ sản xuất nông nghiệp, dân cư có thu nhập trung bình trở lên ở địa bàn nông thôn. Thực hiện chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của NHNN về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, NHNN các tỉnh Nam Trung Bộ tiếp tục phổ biến, quán triệt thực hiện đối với các chi nhánh NHTM, các TCTD trong toàn tỉnh và có những chính sách, chương trình hỗ trợ
riêng cho khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Định hướng các TCTD trên địa bàn không ngừng mở rộng hoạt động cho vay nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích thực hiện tiếp cận cho vay nông nghiệp nông thôn, nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất của khách hàng, tạo công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao thu nhập của người nông dân, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đóng góp tích cực vào mục tiêu chung về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển kinh tế nông nghiệp và cải thiện chất lượng đời sống tại khu vực nông thôn hoàn thành xây dựng mới. Cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ lệ 45 – 50% dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn.
Duy trì mức tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý; ưu tiên vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trước hết là các hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo tỷ lệ dư nợ cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn chiếm trên 70% tổng dư nợ, trong đó tỷ lệ dư nợ cho vay hộ gia đình chiếm khoảng 55% và mức dư nợ bình quân/hộ tăng dần từ 30 – 50 triệu đồng theo các năm. Đẩy mạnh cho vay khép kín từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ, trước hết tập trung vào các nông sản phẩm hàng hóa xuất khẩu tạo ngoại tệ cho nền kinh tế.
- Xây dựng đề án riêng về hỗ trợ phát triển hợp tác xã nông nghiệp khu vực Nam Trung Bộ trong tái cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.
- Phát triển NHCSXH theo hướng ổn định, bền vững, đủ năng lực để thực hiện tốt tín dụng chính sách xã hội của Nhà nước; gắn liền với việc phát triển các sản phẩm dịch vụ hỗ trợ có hiệu quả hơn cho người nghèo, cận nghèo và các đối tượng chính sách khác, đảm bảo mục tiêu 100% người nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện đều được tiếp cận các sản phẩm dịch vụ do NHCSXH cung cấp.
- Tiếp tục có giải pháp củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách,
nâng cao chất lượng hoạt động tại Điểm giao dịch xã, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động Tổ Tiết kiệm và vay vốn, phối hợp với chính quyền địa phương và tổ chức Hội đoàn thể đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, rà soát phân tích, đánh giá nợ quá hạn và thực hiện các phương án nâng cao chất lượng tín dụng đã xây dựng, phấn đấu nợ quá hạn dưới 0,5%, không có đơn vị cấp huyện, xã có tỷ lệ nợ quá hạn trên 1%.
- Tập trung vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho người nghèo vì người nghèo là nhóm đối tượng bị hạn chế trong việc tiếp cận lẫn khả năng sử dụng vốn vay ngân hàng. Yếu kém về trình độ quản lý tài chính, về kiến thức sản xuất kinh doanh, về thể chất… khiến cho việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước hết sức khó khăn. Điều này đòi hỏi việc đưa nguồn vốn tín dụng chính sách đến người nghèo phải đi đôi với công tác giải quyết những hạn chế của người nghèo; chỉ có như vậy, người nghèo mới tận dụng được những ưu đãi để vươn lên thoát nghèo. Ngược lại, người nghèo sẽ loay hoay với đồng vốn vay (hoặc tái nghèo). Đối với các TCTD, người nghèo nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn vay sẽ giúp bảo đảm chất lượng tín dụng và tăng khả năng quay vòng vốn, mở rộng phạm vi và số lượng khách hàng được phục vụ.
- Định hướng trong việc mở rộng tự do hoá, cùng với tăng cường tiêu chuẩn hoá và các hoạt động giám sát hoạt động của các TCTD chính thức (hệ thống ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tín dụng vi mô) và phi chính thức (quan hệ vay mượn gia đình, bạn bè, người thân, hội, hụi…) trong nước và nước ngoài để hỗ trợ TCTD đa dạng hoá nguồn vốn và sản phẩm tín dụng phù hợp với trình độ phát triển và dân trí, thói quen ở mỗi địa phương; chú trọng giới thiệu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích tiên tiến là hết sức quan trọng. Ngoài ra, việc khuyến khích khai thác triệt để các nguồn vốn uỷ thác từ các định chế tài chính quốc tế, các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ. Đây là nguồn vốn thường được đầu tư dự án phát triển theo loại cây, con hoặc theo vùng, tiểu dự án. Các nguồn vốn uỷ thác từ nước ngoài có tính chất ổn định trong một thời gian dài, rất phù hợp với nhu cầu cho vay trung và dài hạn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đang đòi hỏi nhiều vốn có lãi suất thấp. Có
chính sách thu hút và mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng vi mô trong nước và quốc tế mở rộng cho vay hộ sản xuất, hộ nghèo, tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức, hai khu vực tín dụng này bổ trợ cho nhau trong việc cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn với khu vực chính thức có nguồn vốn dồi dào hơn và có thể cho vay với lãi suất thấp, khu vực phi chính thức có cơ chế hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy.
- NHNN chỉ đạo các TCTD các tỉnh Nam Trung Bộ nói riêng và cả nước nói chung các nhiệm vụ sau: (i) tiếp tục coi nông nghiệp, nông thôn là một trong các lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong đầu tư và mở rộng tín dụng; (ii) Xây dựng và triển khai các sản phẩm tín dụng phù hợp với người nông dân và đặc thù của sản xuất nông nghiệp từng vùng, miền; (iii) triển khai kịp thời các quy định mới về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn tại nghị định 116/2018/NĐ- CP và các chính sách tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn nhằm giúp người dân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ổn định cuộc sống và khôi phục sản xuất; (iv) tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục tín dụng, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, chú trọng phát triển mô hình ngân hàng lưu động ở những vùng khó khăn, vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện cho người dân thuận tiện hơn trong việc tiếp cận vốn và các dịch vụ ngân hàng khác; (v) đẩy mạnh tuyên truyền, ứng dụng và cung ứng các sản phẩm ứng dụng công nghệ 4.0 phù hợp để khuyến khích người dân, doanh nghiệp khu vực nông thôn sử dụng các tiện ích ngân hàng hiện đại.
Tăng cường phối hợp giữa các tổ chức tín dụng, đoàn thể và chính quyền địa phương với mục tiêu nhằm tư vấn, hướng dẫn người dân xây dựng dự án vay vốn, sử dụng đồng vốn hợp lý, đảm bảo quản lý nợ và rủi ro, vốn cho vay phải gắn kết với các chương trình phát triển kinh tế của địa phương. Các tổ chức tín dụng cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị xã hội như Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, với các cơ quan tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ như các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, viện nghiên cứu…Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ các hoạt động tín dụng trên địa
bàn, như tuyên truyền chính sách vay vốn đến từng hộ gia đình, hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động của các ngân hàng.
- Chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo cần được triển khai theo hướng liên kết giữa tín dụng cho người nghèo, tín dụng nông nghiệp nông thôn với chương trình xây dựng nông thôn mới, tập trung vào nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho người nghèo. Phối hợp, lồng ghép các mục tiêu và công cụ giảm nghèo của chính sách tín dụng với các chính sách giảm nghèo khác.
3.3. GIẢI PHÁP TÍN DỤNG NGÂN HÀNG GÓP PHẦN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CÁC TỈNH NAM TRUNG BỘ
3.3.1. Đa dạng hoá các hình thức cho vay phù hợp với đặc thù cấp tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy xây dựng nông thôn mới
Nông nghiệp là lĩnh vực có nhiều rủi ro và thời gian sản xuất khác nhau. Bởi vậy, để khuyến khích người dân vay vốn cần tạo ra cho người dân cảm thấy việc vay vốn phù hợp với điều kiện sản xuất của mình. Với việc đa dạng các hình thức cho vay giúp khách hàng có thể chọn lựa các phương thức cho vay phù hợp với hình thức sản xuất kinh doanh của mình, từ đó có kế hoạch sản xuất cũng như kế hoạch trả nợ cụ thể. Việc đa dạng hoá cũng cần có sự kết hợp nhiều phương thức cho vay linh hoạt như cho vay lưu vụ, cho vay theo hạn mức,… nhằm giúp cho người vay chủ động hơn trong việc sử dụng vốn phù hợp với chu kỳ và sản phẩm sản xuất trong nông nghiệp.
- Trong trường hợp khách hàng không đáp ứng được điều kiện vay vốn để tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì ngân hàng thực hiện mô hình liên kết 5 nhà, 3 nhà, hỗ trợ sản phẩm tín dụng bằng hiện vật để khắc phục hạn chế này. Hình thức cấp tín dụng này được phối hợp giữa ngân hàng với người vay (người nông dân), nhà khoa học, doanh nghiệp cung cấp, nhà nước. Người nông dân nhận được sản phẩm giống cây trồng, phân bón, máy móc thiết bị, …. phục vụ cho sản xuất kinh doanh từ nhà cung cấp. Ngân hàng thanh toán tiền các khoản chi phí đó thay cho người nông dân. Hình thức tín dụng này giải quyết được bất cập của các tổ chức tín dụng khi cho vay, chuyển tải được vốn vay đến người nông dân một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả