Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Đảm Bảo Cho Vay Đúng Đối Tượng Đáp Ứng Nhu Cầu Của Người Dân Và Các Tổ Chức Kinh Tế Tham Gia Hoạt Động Nông


Tuy nhiên, thời gian qua, các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay đối với các lĩnh vực hoạt động sản xuất nông nghiệp với nguồn vốn trung – dài hạn lại chưa quan tâm đúng mức, tỷ trọng cho vay trung – dài hạn ở mức thấp hơn so với cho vay ngắn hạn. Do đó, trong thời gian tới, các TCTD cần tăng tỷ trọng cho vay trung – dài hạn tạo điều kiện cho các các nhân, doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã,… có thể tiếp cận được nguồn vốn này để thực hiện dự án sản xuất nông nghiệp dài ngày, bằng các giải pháp cụ thể như:

- Tiếp tục thực hiện việc cấp tín dụng trung – dài hạn theo phương pháp truyền thống đã được triển khai.

- Đẩy mạnh phát triển loại hình tín dụng cho thuê tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Việc mở rộng thị trường cho thuê tài chính nông thôn này có thể cùng lúc giải quyết được nhiều vấn đề còn tồn tại như đáp ứng được nguồn vốn trung – dài hạn, khắc phục được hạn chế về tài sản bảo đảm và có thể kiểm soát được chặt chẽ mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Loại hình tín dụng này được thực hiện trên cơ sở hợp đồng thuê tài chính (với tài sản thuê có thể là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển,...) giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính với khách hàng thuê. Như vậy, người thuê (các đối tượng tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp) không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch vay vốn khác; thời gian cho thuê thường với kỳ hạn dài, các hộ sản xuất có thể đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ với quy mô lớn, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp, nông thôn. Các hợp tác xã có thể sử dụng sản phẩm tín dụng này để tập trung sản xuất trên quy mô lớn.

- Chú trọng triển khai sản phẩm cho vay đồng tài trợ theo chuỗi giá trị liên kết sản xuất nông nghiệp. Theo đó, các TCTD có thể liên kết với nhau để phối hợp cấp tín dụng cho các chủ thể tham gia vào một chuỗi sản xuất. Phổ biến tại khu vực nông thôn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách xã hội có thể liên kết với nhau để cho vay đồng tài trợ cho các dự án phát triển sản phẩm nông nghiệp từ khâu nguyên liệu đầu vào đến các sản phẩm đầu ra. Khi


đó, Ngân hàng Chính sách xã hội có thể thực hiện cho vay đối với các cá nhân, hộ gia đình hoặc các trang trại, hợp tác xã thực hiện sản xuất, nuôi trồng,… nguyên liệu để cung cấp cho dự án chế biến, sản xuất sản phẩm nông sản; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ thực hiện cấp tín dụng cho các doanh nghiệp tham gia thu mua, chế biến các sản phẩm nông nghiệp, đảm bảo đầu ra cho chuỗi sản xuất. Với sản phẩm cho vay này, có thể chia sẻ được rủi ro giữa các TCTD tham gia cấp tín dụng, tận dụng được lợi thế chính sách đặc thù của từng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của chủ thể vay vốn, đồng thời giám sát được quá trình sử dụng vốn vay cũng như đảm bảo đầu vào và đầu ra ổn định cho đối tượng sử dụng vốn vay.

3.3.7. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo cho vay đúng đối tượng đáp ứng nhu cầu của người dân và các tổ chức kinh tế tham gia hoạt động nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì một yếu tố không thể thiếu thuộc về đội ngũ cán bộ tín dụng với tư cách chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng. Người làm tín dụng phải có trình độ năng lực vững vàng, giỏi nghiệp vụ, là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính cũng như tiềm năng phát triển của khách hàng, có kiến thức sâu rộng về các ngành, khả năng phân tích tốt về thị trường bên cạnh đó phải có đạo đức, lòng nhiệt tình, cẩn thận,… từ đó có thể thẩm định tốt các dự án vay vốn nhằm tạo ra hiệu quả, tránh được các rủi ro tín dụng.

- Hiện nay, mạng lưới hoạt động của các tổ chức tín dụng ở địa bàn nông thôn còn nhiều hạn chế như số lượng cán bộ tín dụng còn ít, thiếu kinh nghiệm… do đó để đáp ứng nhu cầu của các đối tượng tham gia trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đặc biệt là cho vay xây dựng nông thôn mới còn khá mới mẻ, nâng cao hiệu quả hoạt động của tín dụng ngân hàng trong lĩnh vực này, các TCTD cần nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng. Việc nâng cao trình độ của CBTD giúp rút ngắn thời gian nhận hồ sơ và xét duyệt cho vay mà vẫn đảm bảo được an toàn. Điều này sẽ góp phần thoả mãn nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, không làm lỡ mất thời cơ của khách hàng, khi năng suất lao động tăng lên ngân hàng có thể phục vụ nhiều khách hàng hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 234 trang tài liệu này.


- TCTD chỉ đạo các chi nhánh, phòng giao dịch rà soát, đánh giá cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng dựa trên các tiêu chí trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, thái độ, đạo đức nghề nghiệp, năng suất lao động, chất lượng tín dụng, thu nhập tạo ra,…

Tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng nông thôn mới các tỉnh Nam Trung Bộ - 24

- Cơ cấu lại căn bản đội ngũ cán bộ hiện tại trên cơ sở tiến hành đánh giá, phân loại, chọn lọc cán bộ có năng lực chuyên môn, trình độ phù hợp, sắp xếp, bố trí cán bộ hợp lý, đúng người đúng việc để cán bộ có thể phát huy sở trường, hạn chế được sở đoản nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của ngân hàng.

- Đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ làm công tác tín dụng nói riêng là vô cùng cần thiết, do đó các TCTD cần phải lựa chọn, sắp xếp cán bộ làm công tác tín dụng không những có tài mà còn phải có tâm trong nghiệp vụ tín dụng, thẩm định cho vay. Thường xuyên tuyên truyền cho cán bộ, nhân viên về văn hóa doanh nghiệp, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, ý thức chấp hành quy trình, kỷ luật, kỷ cương của tổ chức. Đồng thời thông qua việc giám sát tác phong sinh hoạt lối sống, quan hệ xã hội để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa những sai phạm yếu kém.

- Thực hiện cơ chế khoán người khoán việc gắn với thưởng phạt rõ ràng, nghiêm túc để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng hoạt động. Tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, thực hiện tiết kiệm.

- Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ tín dụng về kỹ thuật canh tác, kiến thức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… tổ chức các cuộc khảo sát thực tế, học hỏi kinh nghiệm… nhằm giúp cho cán bộ tín dụng nâng cao chất lượng thẩm định các phương án, dự án đồng thời có thể xây dựng những chương trình cho vay sát thực với khu vực nông nghiệp, nông thôn.

- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn về nông nghiệp công nghệ cao nhằm nâng cao năng lực thẩm định đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, làm cơ sở đẩy nhanh quá trình lựa chọn dự án cũng như quyết định các điều kiện tín dụng (mức vốn cho vay, thời hạn cho vay, tỉ lệ bảo đảm tiền vay…) có lợi cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng.


- Cần có chính sách khuyến khích khen thưởng đối với cán bộ tín dụng làm việc tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo làm việc có hiệu quả đem lại lợi nhuận cho tổ chức nhưng cũng có quy chế xử phạt, kỹ luật thật nghiêm khắc đối với CBTD làm việc thiếu trách nhiệm gây thất thoát vốn để nâng cao tinh thần, hiệu quả và trách nhiệm với công việc được giao. Trong cơ chế trả lương, khen thưởng cần chú trọng để đảm bảo cho cán bộ, nhân viên có thu nhập phù hợp kết quả lao động, tránh cào bằng, trả lương theo thâm niên, bằng cấp. Quan tâm thoả mãn nhu cầu chính đáng của nhân viên. Cần có sự chuyên môn hoá trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng nên phân mỗi cán bộ tín dụng phụ trách một mảng cho vay nhất định được chia theo ngành. Tuỳ theo trình độ, năng lực của từng người để ban lãnh đạo phân công công việc phù hợp. Việc chuyên môn hoá như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng dễ dàng giám sát, sát cánh cùng khách hàng trong vấn đề quản lý vốn.

- Đối với Ngân hàng chính sách xã hội: đào tạo được một cán bộ ngân hàng giỏi đồng nghĩa với việc xây dựng được một giáo viên kiêm nhiệm giỏi, đó là nhân tố để đem lại thông tin và truyền đạt kiến thức về tín dụng chính sách của Đảng và Nhà nước cho người nghèo và đối tượng chính sách hiệu quả nhất. Cán bộ lãnh đạo xã, đặc biệt là cán bộ Ban giảm nghèo và cán bộ Hội, Ban quản lý Tổ TK & VV có vai trò quan trọng trong các hoạt động của NHCSXH địa phương. Vì vậy, năng lực cán bộ xã, hội, ban quản lý Tổ TK & VV là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình. Do đó, NHCSXH thường xuyên tổ chức tập huấn cho các cán bộ Hội và cán bộ xã về những nghiệp vụ liên quan đến các công việc uỷ thác cho vay. Nội dung tập huấn cho từng đối tượng đều được phân ra từng cấp độ khác nhau, lựa chọn những phương tiện tiếp cận, giảng dạy phù hợp để truyền tải kiến thức đến học viên một cách có hiệu quả nhất.

3.4. MỘT SỐ I N NGHỊ

3.4.1. Đối với Chính Phủ

- Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.

Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định sẽ tạo điều kiện để các chủ thể phát huy


được thế mạnh, sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Nhà nước cần giữ một nền kinh tế phát triển lành mạnh, đảm bảo môi trường kinh doanh ổn định để người dân và doanh nghiệp có điều kiện thuận mới trong hoạt động đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ra, trong một môi trường sống an toàn, kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể an tâm kinh doanh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.

- Tăng cường năng lực và khả năng cung cấp dịch vụ của các tổ chức tín dụng trong hoạt động cho vay nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới

Mặc dù với chủ trương của Nhà nước là khuyến khích tất cả các NHTM tham gia vào thị trường tài chính nông nghiệp, nông thôn nhưng đến nay cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng mới chỉ tập trung chủ yếu vào một số TCTD của nhà nước như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội, Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Hợp tác xã. Do đó, việc tăng cường năng lực tài chính, quản trị rủi ro, đổi mới hoạt động của các định chế tài chính này là hết sức quan trọng. Cần tăng vốn điều lệ cho các định chế này, có chính sách hỗ trợ nhất định để tạo điều kiện cho các định chế tài chính này có thể mở rộng hơn nữa mạng lưới cho vay ở các vùng sâu, vùng xa nhằm tăng cường tính bền vững trong hoạt động của các định chế tài chính nông thôn.

Có chính sách thu hút và mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô để mở rộng cho vay hộ sản xuất, hộ nghèo; tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức. Việc thu hút và mở rộng quy mô của các tổ chức tài chính vi mô, nhất là đối với các tổ chức nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc gia tăng nguồn vốn tín dụng cho khách hàng nông nghiệp, nông thôn. Mặc khác, nếu khai thác và phối hợp được thế mạnh của hai khu vực này sẽ đảm bảo có được nhiều dòng tín dụng và có chất lượng cao hơn cho người dân nông thôn, nhất là người nghèo.

Tăng vốn đầu tư trực tiếp phát triển nông nghiệp theo hướng ưu tiên nâng cao năng lực, hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ, nhằm tạo ra những đột phá mới về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Chủ trương đầu tư cần quan


tâm cơ giới hóa, bảo quản, chế biến sau thu hoạch, giảm thất thoát, gia tăng giá trị sản phẩm.

Đẩy mạnh phát triển mạng lưới tín dụng nông thôn, tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, khuyến khích các ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay vốn với cơ chế ưu đãi đối với nông nghiệp, nông thôn. Lựa chọn ưu tiên với các mặt hàng có tiềm năng trên thị trường mà nông dân đang cần vốn đầu tư. Tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp và nông dân thông qua cho vay theo chuỗi ngành hàng, lấy doanh nghiệp thu mua, chế biến làm trung tâm.

Tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về thu tiền sử dụng đất, về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, nhất là các dự án đầu tư áp dụng công nghệ cao, công nghệ chế biến nông sản thực phẩm sau thu hoạch, dự án đầu tư vào các vùng khó khăn. Nhân rộng, phổ biến các mô hình xã hội hóa đầu tư, mô hình quản lý các công trình hạ tầng có hiệu quả, bền vững cho các vùng nông thôn.

- Khuyến khích các trung gian tài chính tham gia cấp tín dụng cho xây dựng nông thôn mới

Trước tiên, cần phải nhận định việc phát triển được những TCTD hoạt động bền vững đòi hỏi xác định được các trung gian có năng lực cao, gắn với mục tiêu hỗ trợ khách hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn một cách rõ ràng, có phương pháp tiếp cận thị trường và công nghệ phù hợp, có khả năng liên kết với các đối tác trong giải quyết những yếu kém, thách thức trong thực tiễn cấp tín dụng.

Chính phủ cần có biện pháp tái cấu trúc, tăng vốn điều lệ, năng lực tài chính cho các TCTD hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn gắn với yêu cầu cải tiến phương thức, thủ tục, các chi phí giao dịch, tăng cường giám sát hoạt động của các trung gian này.

Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho các tổ chức tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, mức độ đa dạng hóa, hiệu quả và cạnh tranh của các trung gian tài chính cũng cần được thúc đẩy. Chính phủ cần dần mở cửa thị trường tín dụng nông nghiệp, nông thôn với thị trường quốc tế bằng việc thông qua các chính


sách khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia lĩnh vực tín dụng nông nghiệp, nông thôn như cho phép mở chi nhánh hay thành lập các ngân hàng liên doanh. Tận dụng được những lợi ích từ việc chia sẻ công nghệ và chuyên môn của các ngân hàng nước ngoài, thậm chí là các nguồn vốn huy động, sẽ góp phần cải thiện năng lực hoạt động của các trung gian tài chính trong nước, tăng nguồn vốn, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường này.

Một thị trường hoạt động thông thoáng, một cơ chế ưu đãi cần được thực hiện đối với các ngân hàng thương mại nội địa và nước ngoài có mong muốn và năng lực thâm nhập vào thị trường tài chính nông nghiệp, nông thôn với các chính sách ưu đãi được quy định, thông báo rõ ràng về đối tượng, mức độ và thời hạn ưu đãi. Cần gỡ bỏ những quy định về trần lãi suất đối với các khoản tín dụng nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo dựng một cơ chế thị trường cho các chủ thể hoạt động công bằng trong lĩnh vực này.

- Chính phủ cần có biện pháp phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp

Cần có cơ chế chia sẻ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng và hộ sản xuất nông nghiệp thông qua việc hình thành và phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp, các công ty bảo hiểm và quỹ bảo lãnh tín dụng. Các tổ chức tín dụng và công ty bảo hiểm phối hợp chặt chẽ trong việc thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lĩnh vực nông nghiệp với nhiều rủi ro tiềm ẩn đòi hỏi phải có một tổ chức kiểm soát tốt những rủi ro đối với hoạt động đặc thù này, từ đó giảm thiểu rủi ro đối với các khoản tín dụng được các ngân hàng cấp cho khách hàng. Thực tiễn hiện nay, hoạt động sản xuất nông nghiệp phải đối mặt với nhiều rủi ro về thời tiết, dịch bệnh trong khi thị trường bảo hiểm cho lĩnh vực này thường phát triển sau thị trường tín dụng. Bảo hiểm cho lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực phức tạp, tốn kém và khả năng sinh lời thấp, rất dễ bị lỗ nên cần phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Để phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp, Nhà nước cần xây dựng một khung thể chế và pháp lý đầy đủ, bài bản cho quản lý hệ thống bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam, trong đó cần quy định danh mục các sản


phẩm bắt buộc phải bảo hiểm là lương thực, thực phẩm thiết yếu, các sản phẩm xuất khẩu chiến lược và các sản phẩm thay thế nhập khẩu. Hiện nay dự thảo Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp nhằm thể chế hoá một bước cao hơn hoạt động bảo hiểm trong nông nghiệp với mức hỗ trợ cho các hộ nghèo, cận nghèo được đẩy lên 90% và 75% phí bảo hiểm nông nghiệp. Tuy nhiên, dự thảo Nghị định mới đưa ra phương án bảo hiểm theo hình thức tự nguyện mà chưa có các ngành nghề yêu cầu bắt buộc phải bảo hiểm, chưa có các hình thức khuyến khích người dân tham gia mua bảo hiểm nông nghiệp, chưa quy định cụ thể về những ưu đãi khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp bảo hiểm riêng cho khu vực nông nghiệp. Do đó, Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm như giảm thuế, cấp bù lỗ và bảo hiểm lãi suất cho vay nông nghiệp đối với một số sản phẩm, quy định mức phí bán bảo hiểm và quy chế bồi thường khác biệt với các lĩnh vực bảo hiểm thông thường, cần phải thành lập các công ty chuyên về bảo hiểm nông nghiệp và hỗ trợ tài chính cho họ thông qua trợ cấp phí bảo hiểm cho nông dân và hỗ trợ kỹ thuật về các lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường công tác truyền thông về bảo hiểm nông nghiệp đến từng cá nhân, doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia lĩnh vực nông nghiệp để những đối tượng này hiểu rõ hơn về cơ chế chính sách ưu đãi của nhà nước đối với loại hình bảo hiểm này và qua đó thấy được lợi ích khi tham gia bảo hiểm nông nghiệp.

Từng bước mở rộng đối tượng được hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp đối với một số loại cây trồng, vật nuôi và thuỷ sản được sản xuất theo mô hình ứng dụng công nghệ cao (hoa, chè, ca cao, tơ tằm, cá nước lạnh…) nhằm khuyến khích việc mua bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cũng như việc mở rộng cho vay của NHTM đối với các khách hàng này.

- Mở rộng các chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo để họ không tái nghèo và đó cũng là động lực để các hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Khi đó, cần hoàn thiện khung pháp lý thống nhất chính sách lãi suất ưu đãi chung theo mức của hộ nghèo trong một khoảng thời gian đầu để họ có thể vượt xa khỏi ngưỡng nghèo đói, tạo thu nhập ổn định và bền vững, tránh tình trạng vừa thoát nghèo lại bị tái nghèo. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần xem xét lại các chính

Xem tất cả 234 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí