với khối lượng lớn, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Khi nguồn lực di chuyển đến một ngành sẽ tác động đến đầu ra của ngành (như sản lượng, năng suất lao động) dẫn đến sự thay đổi tỷ trọng của ngành so với trước và tất yếu tác động tới tăng trưởng năng suất của tổng thể nền kinh tế. Quá trình di chuyển nguồn lực đó cũng làm thay đổi cơ cấu của chính bản thân nó như vốn, lao động giữa các ngành dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành và cơ cấu của chính nguồn lực đó. Đối với nền kinh tế quốc dân, chuyển dịch cơ cấu ngành có nghĩa là sự vận động và biến đổi của các ngành khu vực I, II, III, theo chiều hướng là tăng tỷ lệ các ngành khu vực II, III, giảm tỷ lệ các ngành khu vực I trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) [16].
Năm là, ThS. Cao Ngọc Thành (2016) cấp ngành, Đánh giá tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM giai đoạn 2000-2010. Tác giả đã phân tích tổng hợp tác động bên ngoài của kinh tế thế giới. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ tiêu để đo lường mức độ lạm phát của nền kinh tế có nhiều biến động lớn và có lúc nằm ngoài dự định của Chính phủ. Trong năm 2009, mặc dù đã triển khai hàng loạt biện pháp như thắt chặt chính sách tài khóa, thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, cắt giảm đầu tư công nhưng mức lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức cao của thế giới. Trong bối cảnh đó, Chính quyền thành phố cũng đã nghiêm túc triển khai các biện pháp được đề ra trong Nghị quyết 11 của Chính phủ và đã có một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, hầu hết các chính sách này đều sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là biện pháp cắt giảm đầu tư công và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Trong quá trình đó, xuất hiện hai luồng ý kiến: một là tiếp tục cắt giảm đầu tư và đầu tư công với những quyết tâm lớn nhất, và hai là thận trọng trong việc cắt giảm đầu tư nhằm duy trì mức độ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm. a)Đánh giá hiện trạng tác động của vốn đầu tư đến cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế; trong đó, làm rõ mối quan hệ giữa vốn đầu tư phát triển với cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. b)đề xuất giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đến năm 2020, và xây dựng định hướng chiến lược đầu tư trong giai đoạn 2015-2020 nhằm thúc đẩy tăng trưởng và CD CCKT [28].
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU MÀ CÁC CÔNG TRÌNH CHƯA GIẢI QUYẾT ĐƯỢC.
1.2.1 Các nghiên cứu chưa chỉ ra được.
Các công trình khác chưa nêu lên tác động tín dụng Ngân hàng trong mối tương quan với hoạt động CD CCKT để thúc đẩy phát triển kinh tế TP. HCM;
+ Cơ cấu lãnh thổ là biểu hiện vật chất cụ thể của phân công lao động theo lãnh thổ, không gian thích hợp các giao điểm của các quá trình, các sự kiện diễn ra trong nó. Như vậy, CCKT lãnh thổ được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Vì thế trình độ hình thành, phát triển và hoàn thiện cơ cấu lãnh thổ hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ CNH, HĐH mà động lực chính của nó là cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Bên cạnh đó các công trình khác chưa nếu lên cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu thành phần là tổng thể các hình thức kinh tế, các khu vực kinh tế tồn tại trong mối quan hệ tương tác với nhau, vận động phát triển phù hợp với các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) tương ứng với nó là một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội… Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế.
1.2.2 Một số nghiên cứu nêu ở góc độ tổng quan, chưa phản ánh cụ thể các tác động của tín dụng Ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM.
Chưa chỉ ra vướng mắc của hoạt động tín dụng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM, từ khi thiết lập mục tiêu, xây dựng kế hoạch, triển khai đầu tư, cũng như đánh giá kết quả thực hiện,… Để cấp tín dụng các NHTM còn có thể đi vay ở các định chế tài chính khác trong nước và các TCTD khác. Đây là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa NHTM với các TCTD khác hoặc giữa NHTM với NHNN.
Có thể bạn quan tâm!
- Tín dụng ngân hàng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh 1674832566 - 1
- Tín dụng ngân hàng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh 1674832566 - 2
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài
- Khái Niệm, Đặc Trưng Của Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng
- Nội Dung Yêu Cầu Của Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế:
- Sự Cần Thiết Của Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
Chưa nêu rõ các nguồn vốn đi vay các TCTD khác, các NHTM phải dựa trên việc
ký kết thời hạn cho vay và đi vay. Và thực chất đây là việc trao đổi tín dụng giữa các NHTM với nhau. Các hoạt động vay vốn giữa các TCTD nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD, đối với các khoản vay bằng ngoại tệ, các TCTD cho vay và đi vay trên cơ sở phạm vi hoạt động ngoại hối được Ngân hàng nhà nước cho phép.
Ngoài ra các NHTM còn có thể tận dụng nguồn vốn nước ngoài để làm nguồn vốn cho vay trong nước và nguồn vốn này được hình thành từ các nguồn sau:
Một là, nguồn vốn được hình thành từ các nghiệp vụ đối ngoại như tín dụng và thanh toán quốc tế, quản lý ngoại hối ... Thông qua các nghiệp vụ này các NHTM tập trung được một khối lượng vốn ngoại tệ từ nước ngoài để làm nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT.
Hai là, nguồn vốn vay từ các định chế tài chính nước ngoài. Với xu hướng quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, các NHTM Việt Nam mở rộng các qua việc mở văn phòng đại diện, chi nhánh, đặt các đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với nhiều ngân hàng trên thế giới. Từ đó, các NHTM Việt Nam có thể vay vốn của ngân hàng các nước để cho vay lại trong nước. Các khoản vay này có thể vay trực tiếp hoặc qua sự bảo lãnh của NHNN.
Ba là, nguồn vốn hình thành từ tài trợ của các tổ chức quốc tế. Các tổ chức quốc tế, các định chế tài chính quốc tế sẽ tài trợ các chương trình lớn thông qua việc ký Hiệp định tài trợ với các NHTM để các ngân hàng cho đơn vị đầu tư vay lại như: Dự án Tài chính nông thôn I, II, III của WB tài trợ; Dự án phát triển ngành nông nghiệp của ADB; Chương trình tín dụng Việt Đức (DEG) . . .
1.2.3 Chưa nêu rõ được sự cần thiết của vai trò tín dụng trong việc triển khai đồng bộ vấn đề này để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM.
Chưa có công trình nào liên quan đến việc mở rộng tín dụng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế liên quan đến đề tài của Thế giới và Việt Nam cũng như đối với TP. HCM đến thời điểm hiện nay, chưa thấy một nghiên cứu nào nghiên cứu về tín dụng ngân hàng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh và khảo sát kết quả nghiên cứu trên. Vì vậy, đề tài này sẽ có những điểm khác biệt so với những nghiên cứu trước
đây về cách thức đánh giá gắn liền với địa điểm nghiên cứu và các quy trình, mô hình chuẩn mực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Hồ Chi Minh.
- UBND thành phố Hồ Chi Minh chỉ đạo các cấp, các ngành có liên quan đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở để tạo điều kiện cho vay vốn ngân hàng phát triển sản xuất kinh doanh.
- UBND thành phố Hồ Chi Minh chỉ đạo các sở ngành đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận kinh tế doanh để chủ hộ kinh doanh, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vay vốn ngân hàng ngày càng nhiều hơn.
Tăng cường xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, tạo thị trường đầu ra ổn định.
- UBND thành phố Hồ Chi Minh và các sở ngành có liên quan có kế hoạch định kỳ đối thoại với các doanh nghiệp nhằm phổ biến với doanh nghiệp về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; động viên và khích lệ doanh nghiệp, doanh nhân đồng thời trực tiếp nghe các doanh nghiệp trình bày những khó khăn vướng mắc gặp phải trong đầu tư kinh doanh để giải quyết tháo gỡ khó khăn hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Qua đây các NHTM nắm bắt được tình hình nhu cầu vốn để cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư, SXKD thuận lợi và hiệu quả hơn.
Triển khai đồng bộ vấn đề tổng thể các loại trình độ kỹ thuật và công nghệ tồn tại trong mối quan hệ tương tác giữa công cụ thủ công, nửa cơ khí, tự động hóa…trong qua trình CD CCKT tương ứng với các nguồn lực, trong đó quan trong nhất là vốn và sức lao động.
Triển khai đồng bộ cấu trúc được xem xét trong mối quan hệ tương tác giữa các khâu của quá trình sản xuất - phân phối - lưu thông - tiêu dùng.
Như vậy, cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ, và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối liên hệ liên kết, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, tinh tế và năng động, do vậy CCKT của nó cũng mang tính đa cơ cấu. Với đặc tính đa cơ cấu, việc trình bày một số cơ cấu chủ yếu nói trên xét
về mặt nội dung không phải là tất cả, mà chỉ là những cơ cấu chủ yếu trong hệ thống CCKT quốc dân.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
1.3.1 Nghiên cứu hệ thống lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM, trên nền tảng khoa học có liên quan.
Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hiện nay ở nước ta và thế giới có nhiều cách tiếp cận như sau:
Thứ nhất, “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành” .
Thứ hai, “Cơ cấu kinh tế ngành là tổ hợp được hình thành trên các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành với nhau và phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Thứ ba, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải bảo đảm có được sự tăng trưởng kinh tế dương, hiệu quả, ổn định và đạt ở mức cao; bảo đảm sự vững chắc cần thiết của hệ thống kinh tế, tránh và giảm thiểu rủi ro, có khả năng cạnh tranh; tránh được sự trì trệ, suy thoái và đổ vỡ kết cấu của nền kinh tế, ít bị tổn thương từ những thay đổi ở bên ngoài; ít hoặc không gây phương hại cho môi trường tự nhiên; bảo đảm xã hội phát triển tiến bộ, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội; tham gia quá trình hội nhập quốc tế chủ động và có hiệu quả”.
Trong từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, thuật ngữ: (chuyển dịch cơ cấu kinh tế - Transmitation de structure esconomique) là quá trình thay đổi các quan hệ tỷ lệ về lượng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế dưới sự tác động và điều tiết chủ động của nhà nước. Nhà nước với chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, xác định phương hướng, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo các điều kiện, thực hiện các biện pháp thích hợp để thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có sự khác biệt và có sự giống nhau. Sự giống nhau thể hiện thống nhất về tương quan tỷ lệ, có mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế, chuyển dịch nhằm tăng trưởng và bản chất của
quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Sự khác nhau rất mỏng, khó xác định được ranh giới giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Tác giả nghiên cứu, làm rõ trong thời gian tới nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới tư duy về quản lý kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta [6].
Như vậy, cách tiếp cận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau, chưa có sự thống nhất chung của các nhà nghiên cứu và quản lý kinh tế ở trong nước và ngoài nước
1.3.2 Phân tích thực trạng các vấn đề đã nghiên cứu để chỉ ra kết quả, hạn chế và những nguyên nhân chủ quan, khách quan của hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM.
Trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, để nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định và bền vững trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đòi hỏi cần phải xác định được một CCKT hợp lý, xác lập và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là khái niệm phức tạp, và đã có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng CCKT nằm trong khái niệm cơ chế kinh tế, là một nội dung của cơ chế kinh tế. Cũng có những quan niệm cho rằng CCKT là xem xét về cấu trúc của nền kinh tế; do vậy, khi phân tích CCKT thường tập trung xem xét tỷ trọng, tỷ lệ các yếu tố, các bộ phận mà không nghiên cứu đầy đủ mặt chất lượng của cơ cấu, chưa đánh giá kỹ cơ chế tác động nội tại giữa các bộ phận cấu trúc thành tổng thể kinh tế.
Thực hiện CD CCKT thành phố theo hướng phát triển dịch vụ và các ngành công nghiệp công nghệ cao; đồng thời, thành phố cũng thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập, thủ tục xuất nhập cảnh đối với chuyên gia y tế nước ngoài đến Việt Nam; chế độ khuyến khích hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; phân cấp mạnh và đồng bộ hơn cho thành phố trong việc thu hút và cấp phép cho nhà đầu tư trong và ngoài nước thành lập cơ sở giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao; cơ chế phối hợp với các tập đoàn kinh tế nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, tổng công ty nhà nước trực thuộc bộ - ngành Trung ương trên địa bàn thành phố; xây dựng mạng thông tin liên kết về nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo trên địa bàn thành phố; hỗ trợ thành phố
trong quy hoạch và xây dựng Khu đô thị cảng Hiệp Phước, trung tâm thương mại quốc tế tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Xây dựng cơ sở hạ tầng thu hút đầu tư vào khu công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao, hình thành đô thị khoa học công nghệ có vai trò thúc đẩy nền tảng kinh tế tri thức, Khu nông nghiệp công nghệ cao là cái nôi tập trung lực lượng sản xuất hiện đại, kết hợp sản xuất kinh doanh với nghiên cứu, tiếp thu, chuyển giao, phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao, xây dựng tiềm lực về công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, hình thành giá trị hàng hóa trong chuỗi giá trị gia tăng.
1.3.3 Một số giải pháp hoàn thiện nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Những hạn chế và mâu thuẫn trong hoạt động của các NHTM trên địa bàn TP. HCNM do tác động của một số nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng và nguyên nhân khách quan bên ngoài đưa lại.
Thứ nhất: Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chủ yếu vẫn thực hiện theo các hình thức mang tính truyền thống, còn các hình thức huy động mới có tính hấp dẫn hơn chưa được áp dụng kịp thời và tuyên truyền rộng rãi, các điểm giao dịch để nhận tiền gửi vẫn còn chậm mở rộng theo yêu cầu; phong cách và thái độ phục vụ của giao dịch viên vẫn còn chậm đổi mới nhất là đối với những địa bàn cạnh tranh chưa cao.
Thứ hai: Nhiều NHTM trên địa bàn trong chiến lược kinh doanh của mình đang tập trung khai thác, phát huy các sản phẩm truyền thống, tập trung cho vay các khách hàng lớn ở vùng đô thị, cho vay ngoài địa bàn TP. HCM, chưa chú trọng mặt địa lý, môi trường, về nhu cầu vay vốn nhỏ lẻ làm tăng chi phí khoản vay cũng như quá trình theo dõi thu hồi nợ gặp khó khăn. Mặt khác khả năng sản xuất hàng hóa của khu vực quận, huyện còn hạn chế, tư tưởng làm ăn tự cung, tự cấp còn nặng nề, tư duy làm ăn nhỏ, vì vậy nhu cầu vốn không nhiều, không tập trung và thiếu tính khả thi. Điều này làm hạn chế mở rộng tín dụng; làm giảm vai trò tác động thúc đẩy chuyển dịch CCKT của các NHTM.
Thứ ba: Các doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh chủ yếu là DNN&V nên quy mô vốn tự có nhỏ bé, toàn bộ vốn dùng vào SXKD hầu hết là vay NHTM. Nếu các
NHTM không cho vay thì sẽ ảnh hưởng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. Hồ Chí Minh, nếu cho vay thì không đảm bảo an toàn do năng lực thanh toán của khách hàng bị hạn chế. Mặt khác, các khách hàng là doanh nghiệp vay vốn còn một số tồn tại hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng đó là: báo cáo tài chính và báo cáo SXKD chưa phản ánh đúng tình hình hoạt động SXKD; báo cáo tài chính gửi ngân hàng thường khác với báo cáo tài chính gửi cơ quan chức năng khác như thuế, sở tài chính, kế hoạch đầu tư hơn nữa các báo cáo tài chính chưa qua kiểm toán nên số liệu thiếu minh bạch, độ tin cậy chưa cao, do vậy ngân hàng rất khó đánh giá về thực trạng năng lực tài chính của doanh nghiệp để xem xét cho vay khiến cho NHTM không thể nắm bắt được khả năng thực sự của khách hàng vay vốn. Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp quản trị điều hành không có bài bản, sử dụng vốn kém hiệu quả, do vậy thường bị ảnh hưởng lớn khi tình hình kinh tế khó khăn. Tỷ lệ vốn tự có tham gia vào phương án SXKD thấp, không đáp ứng được các điều kiện vay vốn. Một số khách hàng thiếu hiểu biết về cơ chế tín dụng của NHTM, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp.
Thứ tư: Hồ sơ vay vốn theo quy định của các NHTM còn khá nhiều loại, nhiều hồ sơ chỉ mang tính hình thức, chồng chéo; thời gian thẩm định cho vay còn dài; quy trình vay vốn còn chưa hợp lý: có quá nhiều giấy tờ phải nộp theo quy định, khá nhiều các cơ quan công quyền chứng thực, xác nhận, làm cho khách hàng vay phải đi lên, đi xuống nhiều lần, qua đó cũng làm nản lòng đối với không ít khách hàng vay. Hệ thống các NHTM chưa mạnh dạn triển khai triển khai, hoặc triển khai rất ít các phương thức cho vay đồng tài trợ, phương thức cho vay thấu chi, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng …đối với khách hàng, đây là những phương thức cho vay có khá nhiều ưu điểm như giảm được thời gian đi lại của khách hàng, cùng các ngân hàng khác có thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm thẩm định quản lý dự án để cùng cho vay…
Thứ năm: Việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay chưa được NHNN Việt Nam ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể kịp thời, trên thực tế xử lý tài sản thường kéo dài vì các NHTM khởi kiện khách hàng xong thì thời gian thi hành án là rất lâu, thường phải trên 1 năm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các ngân hàng.
Nhiều ngân hàng hạn chế nhận tài sản đảm bảo ngoài bất động sản đồng thời việc