Từ khái niệm trên rút ra một số điểm chính sau:
Thứ nhất, CD CCKT trước hết thể hiện ở sự thay đổi quy mô và tỷ trọng trong cơ cấu chung của nền kinh tế. CCKT mới được hình thành sẽ khác với CCKT xuất phát cả về quy mô, tốc độ, mức độ hiệu quả, tính bền vững và tính hợp lý và với CCKT mới này sẽ thể hiện sự thay đổi trình độ phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế....so với thời kỳ trước đó.
Thứ hai, đánh giá và tác động chủ động, có mục đích của con người, thông thường vấn đề thực hiện quá trình chuyển dịch đối với một CCKT nhất định cần được thực hiện từ bản thân nó với nhiều yếu tố mất cân bằng, bất hợp lý, cản trở và đẩy lùi sự phát triển kinh tế, hoặc khi xuất hiện những điều kiện phát triển mới thể hiện ở sự xuất hiện những khả năng và giải pháp mới thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện tại.
Thứ ba, mục đích của CD CCKT là thực hiện hệ các biện pháp nhằm hướng tới một cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn, bền vững hơn, có khả năng mang lại hiệu quả cao hơn hay nói cách khác là hướng tới một CCKT mới tối ưu hơn. Để có được sự thay đổi toàn diện, đánh giá một bước phát triển mới của nền kinh tế ở mức cao hơn thì luôn cần có khoảng thời gian đủ dài, các biện pháp phải đảm bảo tính toàn diện.
2.2.3 Nội dung yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Thực chất CD CCKT là quá trình phân công lại lao động xã hội mà sự phân công lao động xã hội theo những quy luật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp tùy theo từng nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất. Thông thường CD CCKT chỉ diễn ra khi có những điều kiện phát triển mới; hoặc có những khả năng và giải pháp mới nhằm làm thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện tại; hoặc trong quan hệ giữa các bộ phận gây cản trở lẫn nhau ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Có thể có nhiều yêu cầu khi xem xét và đánh giá thế nào là một cơ cấu kinh tế tối ưu. Song nhìn chung, một cơ cấu kinh tế được xác định là tối ưu khi nó thỏa mãn những yêu cầu chủ yếu sau:
- Cơ cấu kinh tế phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, gồm cả các quy luật tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế và xã hội, trong đó đặc biệt phải kể đến các quy luật kinh tế như: quy luật quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật giá trị; quy luật lưu thông tiền tệ; quy luật cạnh tranh;
quy luật cung cầu hàng hoá và dịch vụ; quy luật lợi nhuận; quy luật tăng năng suất lao động; quy luật tích luỹ;...
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài
- Những Vấn Đề Liên Quan Đến Đề Tài Nghiên Cứu Mà Các Công Trình Chưa Giải Quyết Được.
- Khái Niệm, Đặc Trưng Của Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng
- Sự Cần Thiết Của Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế
- Bài Học Kinh Nghiệm Về Mở Rộng Tín Dụng Thúc Đẩy Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Của Một Số Quốc Gia
- Kinh Nghiệm Của Singapore Về Mở Rộng Tín Dụng Đối Với Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế.
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
- Cơ cấu kinh tế phải đảm bảo cho phép khai thác tối đa các tiềm năng thể hiện qua các phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Các tiềm năng như tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ,... Những tiềm năng này đã được điều tra và dự báo có khả năng huy động vào sản xuất kinh doanh. Có thể lượng hoá yêu cầu thứ hai qua các chỉ tiêu: hệ số khai thác tiềm năng và đường giới hạn sản xuất kinh doanh tối ưu.
- Cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phản ánh được xu hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường đầy năng động trên thế giới và sự phát triển nhanh chóng ngành dịch vụ hiện nay trong quá trình hình thành cơ cấu kinh tế của từng quốc gia.
- Cơ cấu kinh tế phải đảm bảo cho phép sử dụng ngày càng nhiều lợi thế tuyệt đối và phát huy được lợi thế tương đối khi xem xét giải quyết bài toán phát triển kinh tế trong tương quan so sánh giữa các vùng, ngành, miền hay giữa quốc gia trong cộng đồng kinh tế quốc tế.
- Cơ cấu kinh tế đảm bảo có sự định hướng và tạo điều kiện đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội một cách toàn diện.
Những nội dung chủ yếu nêu trên, là cơ sở để con người nhận thức đúng đắn hơn khi đánh giá tác động của cơ cấu kinh tế đến trình độ phát triển kinh tế của một vùng, ngành, miền hay của cả một nền kinh tế. Đối với một nền kinh tế nhất định, những chỉ tiêu hiệu quả phải xem xét đến luôn bao gồm cả những chỉ tiêu về quy mô sản lượng, lãnh thổ, dân số, tài nguyên, tốc độ phát triển ngành công nghiệp, sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, hiệu quả của lĩnh vực phát minh sáng chế, giá trị và tính ổn định giá trị của đồng tiền ổn định, tính thích hợp của hệ thống tài chính, ngân hàng, sự phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh trong nước và đội ngũ viên chức quản lý Nhà nước, trình độ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, ….
2.3 VAI TRÒ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
2.3.1 Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CCKT và xu hướng chuyển dịch CCKT chịu sự tác động chi phối của nhiều nhân tố khác nhau. Các nhân tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có thể định hướng tích cực hoặc tiêu cực tới CCKT và sự chuyển dịch CCKT. Các nhân tố tác động đến CCKT và sự chuyển dịch CCKT có thể phân thành các nhóm sau:
2.3.1.1 Nhân tố địa lý - tự nhiên
Nhân tố địa lý - tự nhiên như vị trí địa lý, điều kiện đất đai và các nguồn tài nguyên khác như nguồn nước, khoáng sản có tác động tới sự hình thành, vận động và sự biến đổi của CCKT.
Ở mỗi quốc gia, các vùng, địa phương có vị trí địa lý khác nhau thì các điều kiện đất đai, khí hậu, hệ sinh thái… khác nhau. Sự khác nhau của các điều kiện tự nhiên dẫn đến sự khác nhau về số lượng, quy mô các ngành trong nền kinh tế. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, mỗi địa phương có thể làm cho quy mô, số lượng của các ngành giữa các vùng có sự khác nhau và chính sự khác nhau đó sẽ dẫn đến sự khác nhau về cơ cấu ngành. Do vị trí địa lý khác nhau, mặt khác do tính đa dạng, phong phú tự nhiên khác nhau nên một số vùng có những điều kiện thuận lợi để phát triển một số ngành sản xuất, tạo ra những lợi thế so với các vùng, địa phương khác.
2.3.1.2 Nhóm nhân tố về kinh tế - tổ chức
Đây là nhóm nhân tố liên quan đến thị trường, các nguồn lực và các công cụ chủ yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT.
- Nhân tố thị trường: Trong nền kinh tế hàng hóa nhân tố thị trường có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển kinh tế và sự hình thành, biến đổi CCKT. Những người sản xuất hàng hóa chỉ sản xuất và đem ra thị trường trao đổi những sản phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận thỏa đáng. Như vậy, thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả hàng hóa sẽ thúc đẩy hay hạn chế sản xuất, người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị trường để sản xuất những loại hàng hóa nào
có lợi nhất. Do vậy, trên thị trường sẽ xuất hiện các loại hàng hóa dịch vụ với quy mô và cơ cấu khác nhau phản ánh phần nào CCKT ở từng vùng, từng địa phương.
2.3.1.3 Nhân tố xã hội: Bao gồm số lượng và chất lượng nguồn lao động, phong tục tập quán, kinh nghiệm sản xuất.. nhất là nhân tố con người có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành và chuyển đổi CCKT, CCKT mang tính chất khách quan nhưng sự hình thành nó nhanh hay chậm, hợp lý hay không lại do sự tác động của con người. Trình độ tay nghề, trình độ canh tác của người lao động cao hơn thì sẽ có điều kiện thuận lợi để chuyển dịch CCKT nhanh hơn và đặc biệt nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển dịch CCKT theo đúng hướng.
Mặt khác, trong giai đoạn đầu chuyển dịch CCKT đối với cả nước nói chung và TP. HCM nói riêng do mức xuất phát điểm rất thấp, tích lũy nội bộ thấp, nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế lớn. Do đó, tình trạng thiếu vốn đầu tư phát triển kinh tế là tất yếu. Bởi vậy, trong đầu tư tín dụng phải xác định được trật tự ưu tiên đối với những đối tượng, những ngành kinh tế trọng điểm cấp bách trong nền kinh tế. Từ đó tạo sự ổn định và phát triển nền kinh tế, đưa ra tiến trình chuyển đổi CCKT hoàn thành trong một giai đoạn nhất định.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định được vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn vốn và chính sách tín dụng góp phần đẩy mạnh chuyển dịch CCKT nói chung và trên địa TP. HCM nói riêng. Do vậy, việc định hướng và xây dựng CCKT của cả nước, của từng vùng và của từng địa phương hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực và thế giới là tất yếu khách quan, là nhu cầu không thể thiếu được của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Và tất cả các hoạt động kinh tế đều hướng vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược đó.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò và tác động của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với quá trình chuyển dịch CCKT được thể hiện như sau:
Thứ nhất, hoạt động tín dụng ngân hàng thu hút nguồn vốn tiết kiệm và thúc đẩy quá trình tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho chuyển dịch CCKT.
Thông qua hoạt động tín dụng của các NHTM, các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế được tập trung lại và sau đó được tiến hành phân phối lại để đáp ứng nhu cầu sản
xuất, lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội, trong nền kinh tế không chỉ có tái sản xuất giản đơn mà tái sản xuất còn là một quá trình thường xuyên mở rộng và phát triển, do vậy luôn cần một lượng vốn tương ứng.
Thứ hai, hoạt động tín dụng góp phần chuyển tải các tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch CCKT.
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và đảm bảo an sinh xã hội. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hòa phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này lại phụ thuộc các điều kiện tín dụng như lãi suất, điều kiện vay vốn, tài sản đảm bảo, bảo lãnh và chủ trương mở rộng hay hạn chế tín dụng của NHNN trong từng thời kỳ. Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác.
Thứ ba, hoạt động tín dụng NHTM góp phần thay đổi CCKT.
Vốn tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ chính thúc đẩy các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế phát triển, chuyển dịch theo các định hướng chiến lược; góp phần tác động; kết hợp khai thác tiềm năng và thế mạnh về đất đai, tài nguyên thiên nhiên và lực lượng lao động; tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất, sức lao động và khai thác triệt để các nguồn lực trong nền kinh tế cho quá trình chuyển dịch CCKT.
+ Về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: Chú trọng đầu tư tín dụng cho ngành nông nghiệp nhằm chuyển đổi nhanh và mạnh cơ cấu nội ngành, áp dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học để thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị trên một đơn vị diện tích, tăng sản phẩm hàng hóa của ngành nông nghiệp có tính cạnh tranh. Ưu tiên đầu tư sản xuất cho ngành công nghiệp, nhằm đưa tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng nhanh chóng trong đó đầu tư phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến nông lâm, thủy hải sản, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động; các ngành có lợi thế so sánh, có lợi thế cạnh tranh về thị trường, nguyên liệu và lao động.
Tiếp tục tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đầu tư mạnh cho ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, Ngân hàng, bưu chính viễn thông, hàng không, du lịch… phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động; mở rộng thị trường trong nước và phát triển mạnh thị trường ngoài nước.
+ Về chuyển dịch các thành phần kinh tế: Với định hướng chiến lược thị trường, với những quan điểm chính sách và những giải pháp thực hiện đa dạng hóa khách hàng không phân biệt thành phần kinh tế theo phương châm an toàn, hiệu quả, vững chắc. Tín dụng Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc thương mại, thị trường sẽ tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, hàng loạt các doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời với đủ hình thức sở hữu, nhiều DNNN được thực hiện cổ phần hóa, hoặc bán, khoán, cho thuê hoặc được cơ cấu lại cho phù hợp với năng lực quản lý.
Thứ tư, hoạt động tín dụng NHTM góp phần mở rộng và tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại, giao lưu quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh theo đúng hướng.
Sự phát triển của hoạt động tín dụng không chỉ dừng ở phạm vi trong nước mà còn tăng cường sự hợp tác mở rộng ra cả phạm vi quốc tế, nhờ đó nó mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, tạo điều kiện để các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau hợp tác phát triển. Như vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng đã góp phần mở rộng và khơi thông thị trường nước ngoài, đây là vấn đề quan trọng, là cơ sở để xác định được phương hướng sản xuất đi liền với chuyển dịch CCKT, phù hợp với nhu cầu của thị trường hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Thứ năm, vốn tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các DN nâng cao năng lực cạnh tranh, áp dụng các khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào hoạt động SXKD đáp ứng kịp thời yêu cầu của chuyển dịch CCKT.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế còn nhiều bất cập, không đáp ứng kịp thời nhu cầu của sự phát triển. Mặt khác, phần lớn các DN của chúng ta đều có quy mô nhỏ, nguồn vốn tích lũy còn quá thấp, không đủ khả năng để tự tái đầu tư mở rộng và nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất. Muốn cải thiện tình hình đó cần phải tiếp tục tăng
cường đầu tư vốn. Chính vì lẽ đó, vốn tín dụng của ngân hàng không những tham gia vào quá trình SXKD của DN bằng hình thức bổ sung vốn lưu động, mà còn đầu tư vốn trung dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, hiện đại cho quá trình sản xuất. Vốn tín dụng ngân hàng góp phần khai thác các nguồn lực tiềm năng của từng vùng miền tạo ra động lực thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh và bền vững.
2.3.2 Tín dụng ngân hàng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn có vai trò quan trọng trong điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư giữa các khu vực, các ngành, các vùng của nền kinh tế, qua đó tác động tới quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống xã hội. Tín dụng đối với quá trình CD CCKT có vai trò quan trọng sau:
Thứ nhất, góp phần làm thay đổi cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế và làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành.
Thông qua huy động vốn và đầu tư vốn tín dụng cho các tổ chức kinh tế, thuộc từng ngành kinh tế sẽ góp phần làm thay đổi cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế và làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành. Bản thân CCKT ngành là loại cơ cấu quan trọng nhất và là yếu tố quyết định nhất nên tác động của tín dụng vào chuyển dịch CCKT ngành là có ý nghĩa rõ nét hoặc đối với ngành công nghiệp, thông qua tín dụng thúc đẩy quá trình sắp xếp lại lực lượng các doanh nghiệp công nghiệp hiện có, phát triển các doanh nghiệp công nghiệp mới.
Thứ hai, tác động vào chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Thông qua huy động vốn và đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế, tín dụng tác động vào chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển đều cần có nguồn vốn, trong đó có vốn tín dụng. Song vốn tín dụng nhìn chung sẽ chỉ được tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế làm ăn có hiệu quả không kể chúng thuộc thành phần kinh tế nào. Vì thế muốn có vốn để hoạt động, để tồn tại và phát triển thì mọi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải tự khẳng định tính hiệu quả trong hoạt động của mình. Hệ thống các tổ chức, các chủ thể kinh tế thuộc những thành phần kinh tế có hiệu
quả hoạt động kinh doanh cao sẽ phát triển vững mạnh và ngược lại. Kết quả chung là sự phân phối tín dụng đã góp phần làm cho cơ cấu thành phần của nền kinh tế thay đổi đi, hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất cũng như đóng góp của các thành phần kinh tế vào thu nhập của nền kinh tế cũng thay đổi đi. Thực tế cho thấy nhiều dẫn chứng thuyết phục về sự góp phần của tín dụng vào việc điều chỉnh tỷ trọng các thành phần trong nền kinh tế và thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Chẳng hạn, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp thông qua đầu tư vốn tín dụng cho loại hình doanh nghiệp cổ phần, qua việc đầu tư vốn tín dụng vào các tổng công ty lớn thuộc ngành kinh tế mũi nhọn của Nhà nước...
Thứ ba, góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu khu vực của nền kinh tế
Thông qua huy động vốn và đầu tư vốn tín dụng đã góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu khu vực của nền kinh tế. Muốn đảm bảo cho sự phát triển kinh tế bền vững luôn cần duy trì tương quan kinh tế hợp lý giữa các vùng lãnh thổ, chẳng hạn như giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa các vùng sản xuất và tiêu thụ,...Thông thường giữa các vùng kinh tế luôn có sự khác biệt khá lớn về cơ cấu ngành, cơ cấu nguồn lực, cơ cấu về sử dụng công nghệ, cơ cấu sản xuất và tiêu thụ. Cơ cấu này sẽ thay đổi đi khi có sự tham gia của tín dụng thông quan quá trình làm thay đổi cơ cấu phân bổ nguồn lực tài chính giữa các vùng, miền và trong nội bộ từng vùng, miền. Trên thực tế điều này được minh họa khá rõ nét qua việc phát huy vai trò của tín dụng đối với sự hình thành các khu công nghiệp tập trung và phi tập trung, đối với sự bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn; đối với sự hình thành các vùng chuyên canh trong nông nghiệp,...
Thứ tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Vay vốn tín dụng góp phần tạo điều kiện hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Những nước đang phát triển, trong đó đa phần các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ và vừa, vốn ít nên phụ thuộc vào nguồn vốn đi vay là chủ yếu. Ngay như ở Mỹ là nước có nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn hàng đầu trên thế giới thì người ta cũng vẫn thấy ''nguồn vốn từ các ngân hàng là nguồn vốn bên ngoài quan trọng nhất để tài trợ cho các doanh nghiệp.