Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Và Năng Lực Giám Sát Trong Ngân Hàng


chí có thể dẫn đến mất khả năng thanh khoản trong trường hợp này. Vì vậy, đối với thanh khoản của hệ thống ngân hàng, cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Bản thân mỗi một tổ chức NHTM cần tuân thủ nghiêm những quy định về tỷ lệ dự trữ đảm bảo thanh khoản của NHNN, thực hiện giám sát hằng ngày nguồn dự trữ thanh khoản của mình, bao gồm từ những nguồn dự trữ bằng tiền như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi NHNN hay tiền gửi các TCTD khác và những nguồn dự trữ thứ cấp như những giấy tờ có giá có thể sử dụng để chiết khấu, để được tái cấp vốn hay hạn mức từ các TCTD khác,…Đồng thời, cần đánh giá được những rủi ro liên quan như mức độ ổn định của nguồn tiền gửi, khả năng vay từ NHNN, NHTM khác hoặc từ tổ chức kinh tế, từ dân cư,…, cũng như rủi ro phát sinh từ khả năng thanh toán những khoản nợ vay đến hạn hay tỷ lệ những khoản nợ vay còn kỳ hạn dài như khoản vay trung, dài hạn để từ đó có kế hoạch chủ động trước những khả năng thiếu thanh khoản có thể xảy ra, tránh tình trạng phải tăng lãi suất huy động như những cuộc đua lãi suất do vấn đề thanh khoản đã từng xảy ra trong quá khứ.

Bên cạnh đó, để tránh phụ thuộc vào tính không ổn định của những nguồn tiền gửi kỳ hạn ngắn, ngoài những hình thức khuyến khích các nguồn tiền gửi kỳ hạn dài, ngân hàng cũng nên chủ động mở rộng, đa dạng hóa nguồn vốn của mình, thông qua vay mượn trên thị trường vốn. Tuy nhiên, bằng hình thức này, quy mô huy động được và kiểm soát tác động đảo chiều của nó cũng tùy thuộc vào khả năng, uy tín cũng như năng lực quản trị rủi ro của mỗi ngân hàng.

Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể xem xét một số cách thức để tăng thanh khoản cho mình, như rút ngắn kỳ hạn của tài sản hay kéo dài kỳ hạn nợ của ngân hàng, phát hành nhiều cổ phiếu hơn vì cổ phiếu có ưu điểm hơn trái phiếu do không phải trả lãi, cổ tức chỉ được chia khi ngân hàng có lợi nhuận, sử dụng các công cụ bảo hiểm,… Mỗi một hình thức mà ngân hàng sử dụng để tăng thanh khoản đều có chi phí tương xứng, và khi quá chú trọng, tăng thanh khoản quá mức cần thiết có thể sẽ làm giảm cơ hội huy động những nguồn vốn chi phí thấp hoặc tăng chi phí với những nguồn


vốn an toàn, giảm lợi nhuận từ những khoản đầu tư kỳ hạn dài nhiều rủi ro, từ đó giảm lợi nhuận cho ngân hàng.

Vì vậy, các NHTM cần tăng khả năng lượng hóa nhu cầu thanh khoản ở từng thời điểm, thời kỳ để vừa đảm bảo đạt mức dự trữ an toàn, đồng thời tăng hiệu quả kinh doanh, vì đây cũng sẽ là nguồn tạo tấm đệm an toàn cho thanh khoản trong tương lai của ngân hàng.

NHNN cũng đóng vai trò người kiểm soát, điều hướng an toàn thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Do đó, NHNN cần nghiên cứu tỷ lệ dự trữ cho nhu cầu thanh khoản phù hợp với từng thời kỳ, lưu ý đến trọng số cho những hoạt động cho vay có rủi ro cao, và giám sát chặt chẽ việc tuân thủ của các ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần có cơ chế hỗ trợ thanh khoản nhanh và đủ cho các NHTM thông qua hình thức như tái cấp vốn/tái chiết khấu.

5.2.1.7. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và năng lực giám sát trong ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.


Nâng cao năng lực quản trị rủi ro

Tín dụng ngân hàng đối với phát triển thị trường bất động sản trên địa bàn TP. HCM - 19

Việc nâng cao văn hóa quản trị rủi ro và năng lực giám sát ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, quản trị rủi ro cần làm rõ: chấp nhận rủi ro đến đâu; Sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính của ngân hàng cũng như chiến lược chung như thế nào...Do vậy, mỗi ngân hàng phải kiểm soát có hiệu quả không chỉ rủi ro tín dụng, mà còn kiểm soát rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp, giúp ngân hàng chủ động đối phó với tình huống xấu nhất có thể xảy ra [27].

Ở Việt Nam, tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu, mang lại thu nhập cơ bản cho các NHTM. Khi thị trường chứng khoán chưa phát triển, tín dụng ngân hàng đã, đang và vẫn sẽ là kênh cơ bản đáp ứng vốn ngắn, trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Để giảm rủi ro các NHTM cần phát triển hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng. Hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng là bước nhận diện sớm khả năng không trả nợ cho ngân hàng trong tương lai của khách hàng mà hiện tại vẫn trong tình trạng hoạt động tốt,


từ đó NHTM có những biện pháp ứng xử kịp thời nhằm giảm thiểu khả năng xảy ra tổn thất. Việc nhận diện rủi ro sớm tỷ lệ thuận với khả năng tự bảo vệ khỏi tổn thất.

Nâng cao năng lực kiểm tra giám sát trong ngân hàng

Để nâng cao vai trò của công tác kiểm tra, giám sát nhằm hạn chế RRTD cho các NHTM. Bên cạnh đó nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ tạo cơ sở vững chắc cho việc mở rộng và nâng cao CLTD phục vụ cho việc đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển thị trường BĐS nói riêng trên địa bàn TP. HCM cần thực hiện một số biện pháp sau:

+ Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho phòng kiểm soát.

+ Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng có thể tăng cường cán bộ làm trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc thẩm định và quản lý tín dụng cùng phối hợp kiểm tra.

+ Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ phòng kiểm soát.

+ Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm tra, giám sát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.

+ Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tuỳ thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích của kiểm tra.

Cần có sự làm rõ trách nhiệm của bộ phận kiểm tra kiểm toán nội bộ trong chi nhánh đối với các dự án vay vốn. Việt Nam nên tách bộ phận kiểm tra giám sát tín dụng độc lập khỏi phòng kiểm tra.

Đối với công tác giám sát việc sử dụng vốn vay: các NHTM cần phải tổ chức theo dõi chặt chẽ tiến độ hoàn thành từng hạng mục dự án đầu tư, quá trình nhập vật tư, hàng hoá thông qua các báo cáo định kỳ do khách hàng cung cấp... Nếu phát hiện


những vi phạm trong quá trình sử dụng vốn vay sai mục đích, cán bộ giám sát có thể kiến nghị thu hồi nợ trước hạn…

Ngoài ra, việc nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo cũng là một công việc quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của chi nhánh, nó đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải luôn theo dõi, giám sát khoản vay để phát hiện kịp thời những dấu hiệu phát sinh rủi ro.

5.2.1.8. Xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu đảm bảo các thông tin cung cấp là tin cậy

Trong hoạt động ngân hàng, không phải mọi thông tin đều có thể công bố công khai. Nhưng càng minh bạch thông tin, đảm bảo tính cập nhật, độ chuẩn xác, sẽ càng củng cố được niềm tin của khách hàng. Chỉ khi có được hệ thống thông tin tốt, minh bạch, với nguồn nhân lực có chất lượng, có tính chuyên nghiệp, sẽ cải thiện được uy tín, lòng tin giữa doanh nghiệp với ngân hàng bị giảm thấp trong thời gian qua.

5.2.1.9. Khai thác và sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn

Ngân hàng thương mại cần sử dụng vốn ngắn hạn, trung dài hạn hợp lý để tăng trưởng tín dụng nói chung và tín dụng bất động sản nói riêng an toàn và hiệu quả.

Bài học về tăng trưởng tín dụng nóng, sự phát triển quá nóng do làn sóng đầu tư, đầu cơ ồ ạt, đã tạo ra hiện tượng bong bóng trên thị trường vào những năm 2007- 2008. Tuy nhiên, ngay sau đó “quả bóng” BĐS đã xì hơi, bởi do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường BĐS gặp khó khăn về thanh khoản, nhà đầu cơ rút khỏi thị trường, khiến cho ngân hàng cùng các doanh nghiệp lao đao, đứng trên bờ vực của sự phá sản. Trước áp lực đó, NHNN đã phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM kiểm soát chặt tín dụng BĐS. Giai đoạn 2009-2013, hàng tồn kho tăng cao và một lần nữa thị trường lại rơi vào trạng thái đóng băng. NHNN một lần nữa có động thái điều chỉnh hạn mức tín dụng đối với lĩnh vực BĐS của các NHTM nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, nâng cao được hiệu quả trong cho vay BĐS (hiệu quả đối với


khách vay vốn, đối với chủ đầu tư BĐS và hiệu quả đối với NHTM cho vay trong lĩnh vực BĐS).

Tiếp tục tăng cường các giải pháp tín dụng, đảm bảo tín dụng bất động sản tăng trưởng an toàn, hiệu quả và bền vững. Đây là giải pháp quan trọng, tuỳ theo điều kiện kinh doanh cụ thể, mỗi TCTD cần đặc biệt quan tâm, đề ra các giải pháp quản lý hữu hiệu hoạt động tín dụng. Trong đó một quy trình tín dụng khoa học từ khâu xét duyệt, thẩm định, quyết định cho vay được thực hiện chặt chẽ hiệu quả, trên cơ sở phân tích và xử lý thông tin khách hàng tốt để có quyết định cho vay đúng. Đồng thời tôn trọng quá trình kiểm tra, theo dõi khoản vay, sau khi cho vay, những khâu có tính thủ tục xong mang tính quyết định rất nhiều đến chất lượng tín dụng [12].

Trong quá trình này các TCTD cần quản lý, theo dõi chặt chẽ vấn đề nợ xấu, tình hình nợ xấu, để có các biện pháp hạn chế nợ xấu phát sinh, phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các trường hợp sai phạm liên quan. Đặc biệt quá trình điều chỉnh nợ: chuyển nợ, gia hạn nợ, giãn nợ không đúng quy định.

Quan tâm đến các giải pháp liên quan, có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng bền vững và tạo điều kiện cho tín dụng BĐS tăng trưởng hiệu quả đó là: tiếp tục phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng, đẩy mạnh hoạt động ứng dụng công nghệ trong hoạt động kinh doanh. Đây là xu hướng tất yếu quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các TCTD trên địa bàn trong nền kinh tế hiện đại. Mỗi TCTD cần có chiến lược cụ thể, bước đi thích hợp vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển và phù hợp với khả năng tài chính trong điều kiện hiện tại.

5.2.1.10. Cần tăng vốn cho các ngân hàng thương mại


Tăng vốn là vấn đề của tất cả các NHTM phải đối mặt, không riêng gì quy mô lớn hay nhỏ. Đơn cử như tại VietinBank, ngân hàng này đã và đang áp dụng những giải pháp để nâng cao năng lực tài chính trong thời gian qua. Như việc giảm phần vốn Nhà nước sở hữu xuống chỉ còn 64,5%. Ngân hàng này cũng đã bán xấp xỉ 30% cho các nhà đầu tư nước ngoài - kịch mức trần cho phép hiện nay. Hay có NH chọn cách phát hành trái phiếu thứ cấp trên thị trường để bổ sung vốn…


Lãnh đạo các TCTD vẫn rất nhiều tâm tư. Ngân hàng mong muốn Chính phủ, Bộ Tài chính và NHNN xem xét thông qua, cho phép ngân hàng được chia cổ tức bằng cổ phiếu, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng phục vụ nền kinh tế, đồng thời đảm bảo tiêu chuẩn, quy định về tỷ lệ CAR tại Thông tư 36, Thông tư 06 cũng như việc triển khai Basel II của NHNN.

Cùng với đó có cơ chế thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực bằng việc xem xét có định hướng và lộ trình cho việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần Nhà nước tại các NHTM nhà nước; tăng giới hạn sở hữu cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài từ 30% hiện nay lên 35%. Hoàn thiện cơ chế văn bản hướng dẫn phù hợp với thực tế trong việc phát hành tăng vốn riêng lẻ, đảm bảo quá trình bán vốn vừa minh bạch, vừa có tính khả thi cao…

5.2.1.11. Cần ban hành các tiêu chí cho vay đối với các loại bất động sản


Đồng thời, ban hành các tiêu chí cho vay đối với các loại bất động sản khác nhau, hạn chế tập trung tín dụng quá nhiều vào các dự án bất động sản, nhà ở cao cấp; chỉ đạo các tổ chức tín dụng có các gói sản phẩm tín dụng dài hạn với lãi suất phù hợp phục vụ hộ gia đình, cá nhân vay mua nhà để ở, đặc biệt là các đối tượng có thu nhập thấp, có khó khăn về nhà ở (như người có thu nhập thấp ở đô thị, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang) và được thế chấp bằng chính căn nhà sẽ mua;

Bên cạnh đó, rà soát, đẩy nhanh, tiến độ phê duyệt cấp tín dụng đối với các dự án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn cao, đồng thời chủ động xử lý, trình các cơ quan có thẩm quyền quyết định việc cấp tín dụng vượt giới hạn cho phép đối với các dự án trọng điểm quốc gia, các dự án phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội;

Rà soát, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay, trong đó có các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản để cơ cấu lại nợ một cách phù hợp; đối với các khách hàng có phương án đầu tư, kinh doanh khả thi, có khả năng bán được sản phẩm thì được tổ chức tín dụng xem xét cơ cấu lại nợ và tiếp tục cho vay phục vụ sản xuất.


Tuy nhiên, với những đòi hỏi về vốn của thị trường bất động sản, nguồn vốn tín dụng ngân hàng với những ràng buộc của chính sách tiền tệ, trong thời gian tới cần có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính và đa dạng hóa các loại hình huy động vốn khác như từ Quỹ tiết kiệm nhà ở, Quỹ đầu tư bất động sản; cơ quan tái cho vay thế chấp nhà ở, tạo kênh huy động vốn dài hạn cho thị trường bất động sản; ban hành quy định đối với các dự án đầu tư nước ngoài phải hoàn thành công trình với một tỷ lệ nhất định bằng nguồn vốn nước ngoài trước khi huy động vốn từ các tổ chức và cá nhân trong nước để đầu tư…

5.2.2. Nhóm giải pháp đối với phát triển thị trường bất động sản


5.2.2.1. Chính sách phát triển thị trường bất động sản

Hệ thống chính sách đối với phát triển thị trường bất động sản cần đáp ứng được các yêu cầu sau:

Một là, tính đồng bộ trong việc ban hành và tổ chức thực hiện chính sách: Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến thị trường BĐS phải thống nhất, đồng bộ, tránh trường hợp nhiều ban ngành quản lý ra quyết định, quy định chồng chéo như hiện nay, nhằm tạo hành lang pháp lý cho thị trường BĐS vận hành và phát triển.

Hai là, tổ chức tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật trong đầu tư, giao dịch trên thị trường BĐS.

Ba là, ổn định chính sách: Chính sách, pháp luật về BĐS, qui hoạch đất đai phải mang tính chiến lược và ổn định, thay đổi theo lộ trình, không thường xuyên thay đổi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến chiến lược đầu tư dự án của chủ đầu tư, vì hầu hết các dự án BĐS đều có thời gian thực hiện cũng như thu hồi vốn rất dài.

Bốn là, Minh bạch hóa thị trường bất động sản: Luật qui định mọi giao dịch về sản phẩm, dịch vụ của dự án BĐS đều phải thông qua sàn giao dịch BĐS (trừ một số trường hợp đặc biệt theo qui định của pháp luật). Điều này tạo điều kiện tốt cho các sàn giao dịch BĐS hình thành và phát triển, tạo điều kiện công khai và minh


bạch hóa thông tin, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia giao dịch cũng như quản lý nhà nước trong phát triển thị trường BĐS.

Các sàn giao dịch BĐS hiện nay chưa đáp ứng được các tiêu chí nêu trên, chưa đủ tính chuyên nghiệp và chưa đủ sức hấp dẫn trong công chúng. Một phần cũng do tập quán thói quen của người dân Việt Nam khi mua bán BĐS thường qua “cò môi giới” nên cần phải có thời gian để người dân từng bước làm quen; mặt khác, do sản phẩm của các sàn còn hạn hẹp, chưa có nhiều mặt hàng hấp dẫn và chưa có nhiều lựa chọn cho khách hàng, giao dịch chưa thuận tiện và chưa có nhiều dịch vụ hỗ trợ kèm theo (như định giá, dịch vụ ngân hàng…).

Quy luật của thị trường đã khiến nhiều sàn giao dịch trở thành người mua hàng của các chủ đầu tư dự án, sau đó định giá và bán lại như một nhà phân phối đối với sản phẩm BĐS, điều này cũng dễ dàng dẫn đến đầu cơ BĐS của các sàn khi thị trường khan hiếm. Như vậy, nhiệm vụ công khai hóa thông tin thị trường của các sàn giao dịch BĐS thực tế không mang lại hiệu quả, sự có mặt của các sàn giao dịch BĐS chỉ mang tính hình thức. Vì vậy, pháp luật cần qui định các biện pháp chế tài cụ thể để kiện toàn hoạt động của sàn giao dịch BĐS hiện nay, yêu cầu các chủ đầu tư phải công khai thông tin nhà ở trên trang web điện tử, tại văn phòng công ty, văn phòng cơ quan quản lý nhà địa phương.

Thứ năm, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức và nâng cao năng lực các chủ thể tham gia thị trường bất động sản để bảo đảm thị trường bất động sản hoạt động một cách lành mạnh và chuyên nghiệp . Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực bất động sản cao cấp như khách sạn hạng cao cấp, các khu nghỉ dưỡng cao cấp, căn hộ cao cấp và hạ tầng các khu công nghiệp cần vốn đầu tư lớn cũng như các khu đô thị lớn mang tính đặc thù. Hạn chế giao các dự án nhỏ lẻ mà khả năng đầu tư trong nước có thể thực hiện; Đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc cam kết đưa vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam và tiến độ thực hiện dự án.

Thứ sáu, xây dựng hệ thống thông tin, dự báo về thị trường bất động sản thống nhất, tin cậy từ Trung ương đến địa phương làm cơ sở cho hoạch định chính sách,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/12/2022