Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Trên thế giới, phát triển du lịch sinh thái rất được chính phủ quan tâm. Phát triển du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích, cụ thể: Ở Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái. Ở Costa Rica và Venezuela, phát triển du lịch sinh thái không chỉ tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương mà còn giúp bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng. Chính phủ Ba Lan coi việc phát triển du lịch sinh thái là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Với Úc và Newzeland, phần lớn các hoạt động du lịch đều có thể xếp vào hạng du lịch sinh thái. Đây là ngành công nghiệp được xếp hạng cao trong nền kinh tế của hai quốc gia này.
Tại Việt Nam, phát triển du lịch sinh thái là một trong những giải pháp chiến lược hướng tới việc phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống của con người và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng; phát triển du lịch sinh thái đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho quốc gia cũng như cộng đồng người dân các địa phương, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa – nơi có các khu bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn. Ngoài ra, du lịch sinh thái còn góp phần vào việc nâng cao dân trí và sức khỏe cộng đồng thông qua các hoạt động giáo dục môi trường, văn hóa lịch sử và nghỉ ngơi giải trí.
Kiên Giang nằm ở phía Tây Nam của Việt Nam, là một trong 13 tỉnh, thành thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích khoảng 6.346,27 km2 và hơn 1,7 triệu dân sinh sống. Kiên Giang là tỉnh được thiên nhiên ưu đãi rất lớn với rừng, biển, hải đảo, đồi núi, đồng bằng, danh lam thắng cảnh đẹp và hệ sinh thái phong phú… Đặc biệt là khu dự trữ sinh quyển của tỉnh được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang có 3 vùng lõi thuộc Vườn Quốc gia Phú Quốc, Vườn Quốc gia U Minh Thượng và rừng phòng hộ ven
biển Kiên Lương, Kiên Hải. Ngoài ra, Kiên Giang còn có vùng biển rộng 63.290 km2, chiều dài bờ biển 200 km và có hơn 105 hòn đảo lớn nhỏ; nằm trong vịnh Thái Lan, có đường biên giới giáp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia. Đây là trung tâm của khu vực ASEAN, đồng thời là địa điểm lý tưởng để khai thác phát triển du lịch sinh thái biển và du lịch quốc tế. Bên cạnh đó, Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26,40C đến 280C, tháng lạnh nhất là tháng 12; không có hiện tượng sương muối xảy ra. Kiên Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão những lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể, nhất là vào cuối mùa mưa. Điều kiện khí hậu thời tiết của Kiên Giang có những thuận lợi cơ bản mà các tỉnh khác ở vùng đồng bằng sông Cửu Long không có được như: Ít thiên tai, không rét, không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào, nên rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng. Đó là điều kiện thuận lợi để tỉnh Kiên Giang đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái [23].
Có thể bạn quan tâm!
- Tín dụng ngân hàng đối với phát triển du lịch sinh thái tại tỉnh Kiên Giang - 1
- Đặc Trưng Cơ Bản Của Du Lịch Sinh Thái Tại Việt Nam
- Khái Niệm Tín Dụng Ngân Hàng Phát Triển Du Lịch Sinh Thái
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Cấp Tín Dụng Phát Triển Du Lịch Sinh Thái Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Trong nhiều năm qua du lịch sinh thái ở Kiên Giang phát triển còn chậm chưa tương xứng với tiềm năng ưu thế của tỉnh nhưng những đóng góp của du lịch sinh thái đối với phát triển kinh tế xã hội là không thể phủ nhận. Cụ thể: Về mặt kinh tế, phát triển du lịch sinh thái ở Kiên Giang đã tạo ra sự tích lũy về nguồn vốn để phát triển các lĩnh vực khác như: Nông nghiệp (Năm 2014: 12.890 tỷ VND; Năm 2015:
18.362 tỷ VND; 06 tháng đầu năm 2016: 13.925 tỷ VND); Lâm nghiệp (Năm 2014: 246,721 tỷ VND; Năm 2015: 252,561 tỷ VND; 06 tháng đầu năm 2016: 164,773 tỷ VND); Thủy sản (Năm 2014: 6.337 tỷ VND; Năm 2015: 6.852 tỷ VND; 06 tháng đầu năm 2016: 3.524 tỷ VND); Công nghiệp (Năm 2014: 13.480 tỷ VND; Năm 2015: 19.359 tỷ VND; 06 tháng đầu năm 2016: 14.870 tỷ VND). Bên cạnh đó, phát triển du lịch sinh thái đã góp phần không nhỏ trong việc mở rộng kinh tế đối ngoại và thu hút đầu tư cho tỉnh Kiên Giang: Kim ngạch xuất khẩu năm 2014 là: 420.851.000 USD đến năm 2015 là 453.196.000 USD, riêng 06 tháng đầu năm 2016 kim ngạch xuất khẩu đạt 250.362.159 USD. Ngoài ra, các dự án du lịch sinh thái, khu vui chơi giải trí, nhà hàng, khách sạn cũng thu hút đầu tư mạnh mẽ. Tính đến tháng 06/2016 tổng số dự án đầu tư là 178 dự án với quy mô 15.793 ha. Về mặt xã hội, phát triển du lịch sinh thái Kiên Giang góp phần xây dựng nông thôn mới,
đô thị hóa nông thôn, giữ gìn và phát huy phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, giải quyết việc làm nâng cao đời sống cho người lao động. theo đó, bộ mặt nông thôn thay đổi đáng kể nhất là hạ tầng như điện, nước, đường, trường, trạm. Phong tục tập quán, bản sắc văn hóa được phát huy (Toàn tỉnh Kiên Giang có 92,63% hộ sử dụng điện lưới quốc gia; 1,37% hộ dùng điện phát máy, ắc quy; 6,0% hộ chưa sử dụng điện; 04 trường cao đẳng, đại học với 495 giảng viên có hơn 3.090 sinh viên, 02 trường trung học chuyên nghiệp với hơn 310 giáo viên, và trên 5.082 học sinh [23].
Từ nội dung trên có thể thấy những đóng góp của việc phát triển du lịch sinh thái tạ Kiên Giang cho kinh tế xã hội là rất to lớn. Vì vậy, tác giả thiết nghĩ du lịch sinh thái tại Kiên Giang nếu được chú trọng đầu tư hơn nữa sẽ có những đóng góp to lớn cho việc phát triển địa phương về nhiều mặt. Có nhiều nguyên nhân từ những khía cạnh và khác nhau góc độ dẫn đến du lịch sinh thái tại Kiên Giang chưa phát triển tương xứng với tiềm năng nhưng nguyên nhân cơ bản nhất có thể thấy được là sự thiếu hụt về vốn đầu tư. Thực tế cho thấy, đầu tư phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang chủ yếu được thực hiện bởi các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ nên nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Theo đó, để loại hình du lịch sinh thái phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh thì cần tìm ra nguồn vốn đầu tư có quy mô lớn và ổn định. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong việc quyết định nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các khu vực kinh tế hoạch định nhằm phát triển kinh tế bền vững. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn ngân hàng đối với việc phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang tác giả lựa chọn đề tài: “TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH
THÁI TẠI TỈNH KIÊN GIANG” làm luận văn thạc sỹ.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp và cách làm phù hợp cho hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại đối với phát triển du lịch sinh thái tại tỉnh Kiên Giang.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát, cần:
+ Xác định nhu cầu vốn của các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch sinh thái.
+ Xác định khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với phát triển du lịch sinh thái.
+ Xác định khả năng trả nợ vay của khách hàng kinh doanh du lịch sinh thái.
+ Nghiên cứu các chính sách tín dụng phù hợp với khách hàng vay phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang.
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
+ Trong các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang thì nguồn vốn có phải là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất?
+ Nguồn vốn nào là nguồn vốn chủ yếu đầu tư phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang thời gian qua? Quy mô các nguồn vốn này như thế nào?
+ Quy mô nguồn vốn ngân hàng có đáp ứng được nhu cầu của khách hàng đầu tư phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang?
+ Khách hàng vay đầu tư phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang có đủ khả năng trả nợ?
+ Việc lựa chọn mô hình du lịch sinh thái có phù hợp với quy hoạch chung tại Kiên Giang?
+ Các cơ quan quản lý nhận định như thế nào đối với đối với việc phát triển du lịch sinh thái?
1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tín dụng ngân hàng đối với phát triển du lịch sinh thái tại tỉnh Kiên Giang.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Dữ liệu giai đoạn 2014 – 2016.
Không gian: Tín dụng phát triển du lịch sinh thái tại tỉnh Kiên Giang.
1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn sử dụng phương pháp điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp thông qua các số liệu sơ cấp từ các phiếu điều tra của chuyên gia Các nhà đầu tư, kinh doanh du lịch thái trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; các ngân hàng, tín dụng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Các Sở, Ban ngành có liên quan đến phát triển du lịch sinh thái tại Kiên Giang như sau:
* Thu thập dữ liệu:
- Tác giả thu thập dữ liệu từ sách, báo, tạp chí, văn bản luật và các tài liệu có liên quan khác để xây dựng cơ sở lý thuyết của luận văn.
- Phát phiếu khảo sát đến: Các cơ quan quản lý Nhà nước (phụ lục 1); các nhà đầu tư, kinh doanh du lịch thái trên địa bàn tỉnh Kiên Giang (phụ lục 2); các ngân hàng, tín dụng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang (phụ lục 3) để thu thập dữ liệu và tiến hành phân tích thực trạng hoạt động cấp tín dụng đối với phát triển du lịch sinh thái tại tỉnh Kiên Giang cũng như các vấn đề liên quan đến luận văn.
* Phân tích dữ liệu:
Tác giả sẽ thực hiện thống kê cơ bản và tính toán các số liệu có được thông qua việc khảo sát cũng nhưng thu thập từ các báo cáo của các đơn vị có liên quan. Kế đến, tác giả đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đối với phát triển du lịch sinh thái tại tỉnh Kiên Giang và tìm hiểu những nguyên nhân gây ra hạn chế trong cấp tín dụng đối với phát triển du lịch sinh thái tại ngân hàng.
1.6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Về mặt khoa học: Đề tài đã hệ thống được lý thuyết tín dụng đối với phát triển du lịch sinh thái.
Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo trong việc gợi ý chính sách tín dụng để phát triển du lịch sinh thái.
1.7. NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT CỦA LUẬN VĂN
+ Luận văn đã tiến hành phát 400 phiếu điều tra chuyên gia (kết quả sau khi thu về có 350 phiếu hợp lệ và 50 phiếu không hợp lệ ) với 3 đối tượng: Các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Các sở ban ngành có liên quan đến hoạt động phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Các tổ chức, cá nhân kinh doanh phát triển du lịch sinh thái.
+ Đề tài: Thông qua các kết quả điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp. Tác giả đã đề xuất các nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương mại và các cơ quan hữu quan trên địa bàn tỉnh Kiên Giang góp phần nâng cao hoạt động cấp tín dụng phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn.
1.8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần nghi thức, luận văn được bố cục thành 05 chương. Cụ thể: Chương 1: GIỚI THIỆU
Chương 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Chương 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. LÝ THUYẾT VỀ DU LỊCH SINH THÁI
2.1.1. Khái niệm
Du lịch sinh thái được hiểu theo khác nhau tùy vào góc độ tiếp cận.
Hector Ceballos & Lascurain (1987): “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt như: Nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá”. [24]
Lindberg & Hawkins (1993): “Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là công cụ để bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương”. [29]
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN – International Union for Conservation of Nature and Natural Resources) cho rằng: “Du lịch sinh thái là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách quan gây ra và tạo ra những lợi ích cho những người dân địa phương tham gia tích cực”.
Luật Du lịch (2005) của Việt Nam định nghĩa: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. [17]
Từ những nội dung trên cho thấy, đa số ý kiến đều thống nhất rằng: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái”. Theo đó, du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với hệ sinh thái và văn hóa bản địa.
2.1.2. Phân loại du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là ngành kinh tế có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch sinh thái rất phong phú và đa dạng gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Do đó, du lịch sinh thái tồn tại với nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể :
Du lịch biển: Đó là loại hình du lịch mà du khách đến thưởng ngoạn phong cảnh hữu tình của mặt biển, đáy biển; các phong cảnh đẹp của đảo, bán đảo; các sản phẩm do biển cung cấp như: Tôm, cua, sò, cá,… Mục tiêu chủ yếu của du khách là về với thiên nhiên, tham gia các hoạt động du lịch biển, đảo như tắm biển, thể thao biển, lặn biển, xem chim thú các loài động thực vật trên đảo, dưới biển, câu cá, thẻ mực, du thuyền trên biển,… Loại hình du lịch này thường bị ảnh hưởng bởi thời tiết, nhưng có một số nơi có thể tổ chức du lịch quanh năm. Mặt khác, điều kiện chất lượng mặt nước biển, bãi biển, độ dốc không phải nơi nào cũng phù hợp cho du lịch tắm biển. Loại hình này được những người có thu nhập ổn định ưa thích vì có thể lưu lại dài ngày.
Du lịch rừng sinh thái thiên nhiên: Là loại hình du lịch mà du khách tham quan hệ thái thiên nhiên hoang dã, ngắm phong cảnh, xem chim thú,… Hệ sinh thái thiên nhiên điển hình là vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển. Đây là một khu vực thiên nhiên hoang dã có đặc điểm nổi bật về hệ sinh thái và các loài động, thực vật được bảo vệ để duy trì đảm bảo phát triển bền vững. Hệ sinh thái vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên là những vùng có sức hút lớn đối với khách du lịch. Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên được xây dựng nhằm ngăn chặn việc khai thác quá mức đời sống hoang dã và cảnh quan môi trường. Do tính độc đáo của nó, cho nên rất thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch như: Du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí ngoài trời, tìm hiểu thiên nhiên hoang dã, giáo dục, văn hóa, du lịch khám phá, cắm trại, xem chim thú, câu cá, đi bộ trong rừng,… Loại hình du lịch này có khả năng thu hút người có thu nhập cao, những người làm việc bận rộn, người thành thị họ muốn thưởng thức cuộc sống yên tĩnh, môi trường trong lành, tìm hiểu lịch sử, nghiên cứu khoa học,… Đây là hình thức tồn tại đặc trưng của du lịch sinh thái. Loại hình này khuyến khích phát triển nhà nghỉ sinh thái, bảo tồn thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường.