Giai Đoạn Từ Nam Phong Đến Phong Hóa – Ngày Nay (1917-1935)

học nước nhà theo hướng hiện đại hóa. Lực lượng cầm bút chính của Nam phong là các học giả có vốn kiến thức sâu rộng về văn hóa, văn học phương Đông, uyên bác về Hán học lại am hiểu văn hóa phương Tây, thạo Pháp văn như Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, Phạm Quỳnh, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu, Phan Khôi, Đông Hồ, Tương Phố... Nam phong có ảnh hưởng lớn đối với đời sống báo chí và văn học đương thời bởi từ tờ tạp chí này câu văn quốc ngữ cũng dần sáng rõ, những tư tưởng và thể loại mới của văn học phương Tây dần trở nên quen thuộc, người cầm bút và người đọc dần làm quen với thể loại văn học mới như du ký, tiểu thuyết, phê bình văn học, kịch nói... Tạp chí Nam phong như một “trường học” để các nhà văn, nhà báo, nhà phê bình tích lũy kiến thức, học hỏi, trao đổi, tranh luận mà từ đó trưởng thành.

Ở giai đoạn đầu, hầu hết các tờ báo ra đời do chủ ý của chính phủ thuộc địa: Coi báo chí là một thứ vũ khí mới có khả năng chinh phục tinh thần người dân bản xứ, thu hút lực lượng trí thức qua việc quảng bá thông tin chính sự, tạo ra sức lan truyền nhanh mạnh và ảnh hưởng sâu rộng của nhà cầm quyền Pháp đến người dân thuộc địa. Tuy nhiên, báo chí Việt Nam tồn tại và phát triển còn chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố. Trong đó, nhân tố có ý nghĩa thúc đẩy, tạo nên đặc điểm riêng của nền báo chí tiếng Việt, “thoát ly” khỏi mục đích của nhà cầm quyền là ý thức tự tôn tự hào về giá trị truyền thống, là tinh thần tự chủ của con người Việt Nam, đặc biệt là người trí thức. Do vậy, báo chí từ thời kỳ sơ khai đến tạp chí Nam phong đã vượt khỏi giới hạn là công cụ tuyên truyền cho chính phủ Pháp để vươn tới thể hiện đời sống tinh thần, nhu cầu tình cảm của con người Việt Nam qua các bài viết về văn học, lịch sử, văn hóa (dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác mô phỏng...). Hơn nữa, từ Đông Dương tạp chí đến Nam phong, báo chí đã có một bước tiến đáng kể trong việc chú trọng đăng tải các bài viết về lịch sử, văn hóa, văn học có tính học thuật cao. Tờ báo không đơn thuần cung cấp thông tin về thời sự, chính trị mà trở thành cuốn bách khoa thư. Quả thật, Nam phong đóng vai trò khá quan trọng trong chặng đầu hình thành nền báo chí tiếng Việt. Bởi từ tạp chí Nam phong, dù độc giả không hiểu biết gì về Pháp văn và Hán văn cũng có thể: “Có được một trình độ tri thức cần thiết cho sự sống hàng ngày, học giả chỉ cần đọc tạp chí này cũng có được kiến thức rộng rãi. Và khi đọc tờ Nam phong, người ta cũng có thể học hỏi được nền văn hoá phương Đông” [152, 27].

2.1.1.2. Giai đoạn từ Nam phong đến Phong hóa – Ngày nay (1917-1935)

Nếu Nam Kỳ là cái nôi của báo chí thì Bắc Kỳ là địa hạt thuận lợi thúc đẩy cho báo chí phát triển với những vụ mùa bội thu. Khác với báo chí miền Nam, nhìn chung báo chí miền Bắc bị kiểm duyệt chặt chẽ, gắt gao hơn cho nên hầu như báo, tạp chí ở miền Bắc kín đáo trong việc bộc lộ khuynh hướng chính trị, ít có tờ đối lập đồng thời đều quan tâm việc đăng tải các tác phẩm văn chương. Tiêu biểu cho chặng thứ hai này có thể kể đến các tờ báo như Hữu Thanh (1921), An Nam tạp chí (1926), Hà Thành ngọ báo (1927), Tiếng dân (1927), Phụ nữ tân văn (1929), Phong hóa (1932) – Ngày nay (1935)...

Hữu Thanh (1921) là tờ báo được chính phủ Pháp đỡ đầu, do Hội tương tế Thương mại và Kỹ nghệ Bắc Kỳ thành lập, được phát hành mỗi tháng hai số. Mặc dù tờ báo chủ yếu đề cập đến vấn đề về kỹ thuật, kinh tế... song bên cạnh đó vấn có các bài viết về luân lý, về văn học... Tờ báo nổi danh nhờ sự có mặt của các cây bút chủ lực như Nguyễn Mạnh Bổng, Đào Trinh Nhất, Trịnh Đình Rư, nữ sĩ Đạm Phương..., đặc biệt là tên tuổi của hai cây bút danh tiếng đương thời - Tản Đà và Ngô Đức Kế.

Đến An Nam tạp chí (1926), báo chí Việt Nam đã bước qua loại hình tổng hợp (đăng đủ các nội dung, có nhiều thể loại...) dần thể hiện khuynh hướng chuyên môn hóa. An Nam tạp chí là tờ báo đầu tiên chuyên viết về văn chương do thi sĩ Tản Đà vừa đảm nhiệm vai trò chủ báo, chủ nhiệm vừa là người trực tiếp viết bài. Số phận của tờ tạp chí này tuy khá long đong, lận đận: Sinh tồn một cách chật vật vì Tản Đà đơn độc chèo chống trong tình cảnh thiếu tiền, thiếu cơ sở vật chất, không có người hỗ trợ... nhưng tờ báo là nơi thu hút được nhiều cây bút văn chương đương thời, trong đó phải kể đến vai trò của hai tác giả được người đọc yêu thích là cộng tác viên Nguyễn Công Hoan và thư ký Ngô Tất Tố. Trải qua nhiều thăng trầm giống như cuộc đời của người chủ báo, An Nam tạp chí là tờ báo in rõ nhất dấu ấn nổi chìm của người làm báo và là bức tranh hiện thực về đời sống báo chí Việt Nam trước cách mạng. Dù Tản Đà cố gắng, nỗ lực để duy trì nhưng sau nhiều lần tái bản rồi lại đình bản, thậm chí phải thu hẹp số trang, số khổ, tờ báo cũng chỉ gắng gượng được đến tháng 3 năm 1933 thì đình bản hẳn. (Lần đầu đình bản vào tháng 3.1927 – sau khi ra được 10 số; đến tháng 7.1930 tái bản lần thứ nhất, ra được 3 số lại ngừng; từ tháng 12.1930 đến tháng 4.1931, báo chuyển xuống Nam Định, tiếp tục ra lần thứ ba; đến năm 1932, báo lại trở về Hà Nội tiếp tục tái bản...). Tuy tồn tại đầy khó nhọc trong thời gian ngót 7 năm trời (từ tháng 7.1926 đến tháng 3.1933), An Nam tạp chí không chỉ là “một phần quan trọng

trong hoạt động văn chương báo chí của Tản Đà” mà còn có “những đóng góp đáng kể vào giai đoạn chuyển mình của văn học cận đại sang thời kỳ hiện đại” [6, 163].

Ở Trung Kỳ phải kể đến tờ Tiếng dân (ra số đầu tiên vào ngày 10.8.1927, số cuối cùng kết thúc vào ngày 21.4.1943) do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Đây là tờ báo đầu tiên xuất bản ở Trung Kỳ, có thời gian tồn tại lâu nhất (hoạt động liên tục trong 16 năm). Có thể nói, Tiếng dân đã bao quát và phản ánh các sự kiện diễn ra ở Trung Kỳ, đồng thời: “Là nơi tập hợp tiếng nói của các lực lượng có tinh thần dân tộc, dân chủ trong tầng lớp tiểu tư sản miền trung Việt Nam”[6, 172].

Đối với báo chí miền Nam không thể không kể đến tờ tuần báo có sự ảnh hưởng rộng rãi và sức lan tỏa lớn là Phụ nữ tân văn (1929-1935). Mặc dù tờ báo chủ trương đề cập những vấn đề liên quan đến phụ nữ với tư tưởng tiến bộ, khơi nguồn cho phong trào đấu tranh đòi bình quyền và giải phóng phụ nữ nhưng Phụ nữ tân văn còn đăng nhiều sáng tác văn học (tiểu thuyết của Bửu Đình, Đào Trinh Nhất), đặc biệt tờ báo đã mở đầu cho cuộc tranh luận giữa Thơ cũ và Thơ mới tạo diễn đàn sôi nổi, ghi dấu những sự kiện văn học mang tính thời sự. Vì vậy, Phụ nữ tân văn là tờ báo có vai trò khá quan trọng trong đời sống văn học đương thời, được độc giả cả ba miền Bắc – Trung – Nam hân hoan đón nhận.

Đặc biệt, hành trình của báo chí đến năm 1932 với sự xuất hiện của tờ Phong hóa đã làm nên “một cuộc cải hoán lớn, một sự lạ trong làng báo” Việt Nam (Phong hóa, số 13). Đây là tờ báo tập hợp được nhiều cây bút tên tuổi đương thời, là cơ quan ngôn luận của nhóm Tự lực văn đoàn với chủ trương: “Hăng hái theo con đường mới; tìm lí tưởng mới; không chịu khuất phục thành kiến; không làm nô lệ cho ai; không xu phụ một quyền thế nào; lấy lương tri mà xét đoán; theo lẽ phải mà hành động; lấy thành thực làm căn bản; lấy trào phúng làm phương pháp; lấy tiếng cười làm vũ khí” [chuyển dẫn từ 6, 216]... Vì vậy, tư tưởng cổ hủ của đạo Khổng, chế độ quan trường cũ mòn, lạc hậu và tờ Nam phong là đối tượng mà tờ báo công kích. Trên tinh thần ấy, Phong hóa đã tập hợp được một lực lượng cầm bút theo khuynh hướng nghệ thuật tư sản, tự lập thành một nhóm văn phái đề cao tinh thần tự do dân chủ “không dính líu đến Triều đình, thân hào, quan chức”, không dựa vào sự giúp đỡ của chính quyền nhà nước... Sự ra đời của Phong hóa đã đánh dấu bước trưởng thành độc lập của nền báo chí Việt Nam. Đây là tờ báo đầu tiên tự thành lập một tổ chức văn học không chịu sự chi phối của quyền lực, tư tưởng nào do tư nhân đứng ra chủ xướng. Cũng từ Phong

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

hóa mà các văn phái, báo phái giai đoạn sau nở rộ, in sắc thái riêng của nền báo chí tiếng Việt và nội lực của nền văn học dân tộc.

Do tính chất trào phúng, đả kích mạnh mẽ, báo Phong hóa đứng trước nguy cơ bị đình bản vào khoảng giữa năm 1935, chủ báo Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) đã nhanh chóng cho ra đời tờ Ngày nay (30.1.1935) để tiếp tục sự nghiệp của Phong hóa dưới một hình thức “hiền lành hơn”, chất trào phúng, đả kích kín đáo hơn. Tờ báo chủ yếu thể hiện đường lối văn hóa – xã hội của nhóm Tự lực văn đoàn trong việc “đổi mới, canh tân nền văn học nước nhà, đả kích sự hủ lậu ngu dốt, phơi bày mặt trái của xã hội, cổ vũ lối sống văn minh Tây phương, vui vẻ, trẻ trung, hưởng thụ vật chất và niềm vui trong cuộc sống” [6, 218]. Tờ báo đăng tải được nhiều sáng tác (truyện ngắn, tiểu thuyết) quan trọng, nổi bật của các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn, giới thiệu sáng tác của các nhà Thơ mới như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Phạm Huy Thông, Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Phạm Văn Hạnh...; các sáng tác kịch của Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Khái Hưng...

Tìm hiểu văn trên Tri tân tạp chí - 5

Cùng với hai tờ báo Phong hóa Ngày nay, nhà xuất bản Đời nay cũng đóng góp một phần không nhỏ trong hoạt động của Tự lực văn đoàn. Có nhà xuất bản riêng, nhóm Tự lực văn đoàn chủ động trong việc in ấn, phát hành, giới thiệu, quảng bá sách báo, tên tuổi của nhiều nhà văn, nhà thơ. Điều đó có ý nghĩa thúc đẩy công việc làm báo và sáng tác ngày càng chuyên nghiệp hơn. Đặc biệt, nhóm Tự lực văn đoàn còn tổ chức trao giải thưởng riêng về văn học đã thôi thúc và tạo một phong trào sáng tác đối với các văn nghệ sỹ. Từ đó, người ta nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, sứ mệnh của người cầm bút cũng như của nghề viết. Rõ ràng, đến Tự lực văn đoàn báo chí đã thể hiện khá rõ tính chuyên môn hóa. Tờ Phong hóa, Ngày nay ngay từ khi mới thành lập đã rất coi trọng việc in ấn, đăng tải các sáng tác, những bài nghiên cứu, phê bình văn học mới. Đó là một dấu hiệu khởi sắc để có giai đoạn văn học phát triển toàn diện trên báo chí.

2.1.1.3. Giai đoạn từ Phong hóa (1932) – Ngày nay (1935) đến khi tạp chí Tri tân ra đời (1941).

Sau Phong hóa – Ngày nay, những tờ báo chuyên về văn chương ngày càng phát triển mạnh mẽ, có tính chuyên môn hóa cao: Có thể điểm diện qua các tờ báo như Tiểu thuyết thứ Bảy (1934), Phổ thông bán nguyệt san (1936), Tiểu thuyết thứ Năm (1937), Tạp chí Tao đàn (1939)...

Tiểu thuyết thứ Bảy ra số đầu tiên vào ngày 2.6.1934 với tôn chỉ mục đích: “Mỗi ngày thứ bảy, sau một tuần lao động, chúng tôi hiến các bạn: vài ba truyện ngắn, hai

thiên tiểu thuyết dài, hoặc tự chúng tôi soạn ra, hoặc dịch theo sách Tây, sách Tàu”. Kết cấu của tờ báo được chia thành ba phần tương đối khoa học, dành đăng tải ba lĩnh vực chính là: Các sáng tác văn học đương thời (Truyện ngắn, tiểu thuyết); các tiểu thuyết dịch của Phương Tây và tiểu thuyết Trung Quốc... Tờ báo thu hút được đông đảo nhà văn, nhà thơ có tên tuổi trong làng báo, làng văn bấy giờ: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Thanh Châu, Ngọc Giao, Lưu Trọng Lư, Nam Cao, Bùi Hiển, Kim Lân, Thâm Tâm, J.Leiba... Tiểu thuyết thứ Bảy có sức đăng tải lớn, rộng rãi khắp ba miền Bắc – Trung – Nam, đặc biệt được độc giả Nam Kỳ mến mộ. Tồn tại trong một thời gian khá dài (khoảng hơn 10 năm), Tiểu thuyết thứ Bảy được phát hành với số lượng lớn ấn phẩm (500 số), số trang tương đối dày (44 trang), số lượng in ngày càng tăng nhanh (từ 5 ngàn bản, tăng lên 6-7 ngàn, rồi hàng vạn số). Đây là tờ báo gắn với sinh kế của nhiều nhà văn đương thời. Với sức sống mạnh mẽ, Tiểu thuyết thứ Bảy đã mang lại một thực tiễn nội sinh độc lập của đời sống báo chí và văn học nửa đầu thế kỷ XX.

Bên cạnh Tiểu thuyết thứ Bảy, tờ Phổ thông bán nguyệt san (1936-1945) do Vũ Đình Long quản lý tiếp nối nội dung và hình thức của Tiểu thuyết thứ Bảy trong việc đăng tải các sáng tác văn học ở hai thể loại chính là tiểu thuyết và truyện ngắn, tờ nguyệt san này còn ra thêm một loại mới, mỗi tháng một tập: Chuyên san về văn học, sử học, triết học nhằm cung cấp tri thức phổ thông cho độc giả. Góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn học nhanh hơn và toàn diện hơn không thể không kể đến tủ sách Những tác phẩm hay của nhà in Tân dân đã kịp thời in ấn, phát hành nhiều tác phẩm hay, có giá trị không chỉ với người đương thời như Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, Trước đèn của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Truyện hai người của Vũ Bằng, Loạn kiêu binh Chúa Trịnh Khải của Nguyễn Triệu Luật, Bảy Hựu của Nguyên Hồng, bản dịch Liêu Trai chí dị của Tản Đà...

Đến giai đoạn này, báo chí Việt Nam ngày càng thể hiện rõ tính chuyên nghiệp đối với cả người viết và cả việc in ấn, phát hành... Bên cạnh những tờ chuyên biệt, chủ yếu dành riêng cho việc đăng tải các sáng tác văn chương (Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, Phổ thông bán nguyệt san...), lại có những tờ theo xu hướng tổng hợp (Ích hữu, Tao đàn...) đã mở ra dấu hiệu đặc thù cho báo chí giai đoạn sau (1941-1945).

Ích hữu (1936-1938) là tuần báo đăng đủ các chuyên mục: Từ thông tin, thời sự đến nghị luận xã hội, tản văn châm biếm, du ký bốn phương, hộp thư bạn đọc... Giá trị

của tờ báo là đóng góp ở mảng nghị luận xã hội với những bài viết sắc sảo, ở các bài tạp văn hóm hỉnh, thể hiện tinh thần dân chủ...

Trong giai đoạn này, không thể không kể đến vai trò của tạp chí Tao đàn (1939) do Vũ Đình Long làm chủ nhiệm. Mặc dù tờ tạp chí có đời sống ngắn ngủi trong vòng gần một năm (số đầu tiên ra mắt ngày 1.3.1939, số cuối cùng kết thúc vào tháng 12.1939) nhưng với tinh thần cởi mở, tạp chí Tao đàn là diễn đàn rộng mở nhằm: “Thu hút và tập trung văn nghệ sỹ có chung lập trường bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy mọi cá tính sáng tạo văn chương” [6, 378]. Tất cả cùng hướng đến mục đích là gây dựng nền văn hóa Việt. Với chủ trương như vậy, tạp chí Tao đàn luôn chú ý đến các bài khảo cứu, dịch thuật, phê bình, giới thiệu tinh hoa văn hóa, văn học nước ngoài; các cuộc trao đổi xung quanh chủ đề Gây dựng nền văn hóa Việt Nam như thế nào... Các chuyên mục Điểm sách, Giới thiệu sách mới, Thư cho bạn... đã cập nhật những thông tin văn học mang tính thời sự. Bởi thế, Tao đàn là nơi hội tụ của nhiều cây bút danh tiếng như Tản Đà, Phan Khôi, Nguyễn Triệu Luật, Trương Tửu, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Hải Triều... Sự có mặt của các nhà văn có tên tuổi lớn trên văn đàn đã tạo cho tạp chí Tao đàn một dấu ấn riêng, có đóng góp quan trọng về văn chương, tư tưởng và học thuật đương thời.

Là một tờ tạp chí có nội dung hay, in ấn đẹp mắt, thu hút được nhiều nhà văn có uy tín đương thời, vậy mà Tao đàn chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn, chưa đầy một năm, thiết nghĩ có thể lí giải điều này như sau: Tạp chí Tao đàn xuất hiện vào thời điểm Đại chiến thế giới lần thứ hai búng nổ, tình hình chiến tranh loạn lạc là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của tạp chí. Hơn nữa, đây là một tờ tạp chí khá kén độc giả cho nên số lượng người mua ít đã làm cho Tao đàn phải tự đình bản. Tuy nhiên, sự ra đời và tồn tại của Tao đàn cho thấy một sự chuyển hướng thành công (hay một sự bẻ lái cho tinh thần yêu nước) từ mục tiêu đấu tranh sang các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Đây là một xu thế có ảnh hưởng khá rõ đến việc ra đời và phát triển của các tờ báo, tạp chí sau này như Hàn Thuyên, Thanh nghị, Tri tân...

Tri tân tạp chí (1941-1946) sinh thành trong giai đoạn báo chí tiếng Việt nở rộ và phát triển toàn diện: Phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, kiểu, loại. Điều đó cũng đặt ra cả mặt thuận lợi và khó khăn cho tạp chí. Thuận lợi vì có đủ điều kiện, nhu cầu và động lực cần thiết để sinh tồn. Khó khăn là bởi trong sự phát triển rầm rộ đầy tính cạnh tranh của các báo và tạp chí khác, nhất là sự ra đời của các tạp chí chuyên ngành có chất lượng cao (Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, tạp chí Tao đàn,

Thanh nghị…) thì việc tìm được con đường đi riêng, mang bản sắc riêng mà vẫn nhận được sự ủng hộ của độc giả và cộng tác viên lại là một thử thách không nhỏ…

Nhìn lại lịch trình của báo chí Việt Nam qua các giai đoạn hình thành và phát triển từ sơ khai đến khi xuất hiện tạp chí Tri tân, ở mỗi giai đoạn chúng tôi tìm hiểu về chủ trương, tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của những tờ báo tiêu biểu để thấy vai trò của báo chí cũng như sự hình thành các nhóm phái văn học có ý nghĩa tác động như thế nào đến tiến trình hiện đại hóa văn học Việt nam nửa đầu thế kỷ XX. Đó là cơ sở để luận án khẳng định: Báo chí có vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn học diễn ra nhanh mạnh, khẩn trương và đồng bộ. Nếu ở giai đoạn đầu, báo chí được coi là “bà đỡ”, nâng bước, tạo đà cho văn học hình thành và phát triển thì đến giai đoạn sau (kể từ khi xuất hiện Phong hóa) văn học đã thực sự lớn mạnh, chiếm ưu thế trên các tờ báo, nhiều nhà báo trở thành người viết văn chuyên nghiệp (Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng...), nhiều nhà văn, nhà thơ trưởng thành trên báo chí (Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Thế Lữ, Xuân Diệu...). Cũng từ môi trường phát triển, cạnh tranh của báo chí, sự ra đời của các nhà xuất bản đã kịp thời in ấn, phát hành được nhiều tác phẩm văn học đăng lẻ tẻ trên báo chí qua các kỳ được tập hợp thành sách, thành tuyển tập (Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, Chí Phèo của Nam Cao...) tạo ra một “thị trường văn học” vừa khích lệ người sáng tác vừa thu hút người đọc. Lực lượng cầm bút ngày càng chín chắn, trưởng thành và chuyên nghiệp hơn, có nhiều cây bút chuyên sống bằng nghề viết. Các thể loại văn học trên báo chí cũng ngày một phong phú và đa dạng hơn để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của độc giả. Giai đoạn đầu (thời của báo Nam phong) các thể văn dịch, biên khảo, sưu tầm chiếm ưu thế. Đến giai đoạn báo chí phát triển mạnh mẽ, độc lập thì văn sáng tác, phê bình chiếm lĩnh với sự nở rộ của các thể loại văn học mới như tiểu thuyết, truyện ngắn, du ký, kịch, phê bình văn học.... Sự thay đổi của thị hiếu và tâm lí tiếp nhận qua từng thời kỳ đòi hỏi văn học phải đổi mới, bắt nhịp với yêu cầu đời sống văn hóa tinh thần của con người thời đại (phần này luận án sẽ trình bày chi tiết ở mục 2.2, chương 2).

Từ đặc điểm của lịch sử báo chí Việt Nam qua các giai đoạn hình thành và phát triển có thể nhận thấy: Dù báo chí ra đời với bất kỳ mục đích nào (do người Pháp sáng lập vì mục đích chính trị hay do các trí thức văn nghệ sỹ sáng lập vì mục đích văn chương nghệ thuật) đều ẩn sâu ý thức về văn hóa và tinh thần dân tộc của người trí thức Việt Nam. Có thể thấy một mạch chảy liên tục từ Nam phong qua Phong hóa đến Tri

tân như sau: Nam phong đề cao tinh thần phục cổ, nhằm bảo tồn quốc hồn, quốc túy; đến Phong hóa, báo chí và văn học đã mở rộng ra các vấn đề xã hội (chống lễ giáo phong kiến, chống lại sự cổ hủ, lạc hậu của đạo Khổng; nêu cao quyền bình đẳng tự do trên tinh thần dân chủ); khi Tri tân ra đời lại là sự trở về của tinh thần dân tộc, trung thành với lối viết cổ, với các đề tài về lịch sử. Sự ra đời của tạp chí Tri tân chính là sự kế thừa, tiếp nối từ Nam phong kết hợp với tinh thần thời đại. Nếu những sáng tác trên Nam phong nặng về thể nghiệm văn quốc ngữ buổi đầu thì sáng tác trên Tri tân nhằm vun vén tinh thần của lịch sử nên có tầm rộng rãi trong sự bao phủ toàn bộ nền văn hóa Việt.

2.1.2. Về sự xuất hiện của ba nhóm văn phái nổi bật.‌

Mặc dù chính quyền thực dân thi hành chế độ kiểm duyệt chặt chẽ, gắt gao nhưng thực tế đời sống báo chí những năm 1940-1945 vẫn diễn ra sôi nổi với sự xuất hiện đồng loạt của các báo, tạp chí, các nhà xuất bản tư nhân, các hội bút, nhóm bút…đã tác động tích cực đến tốc độ phát triển mau lẹ của nền văn chương hiện đại. Sự xuất hiện và lớn mạnh của các nhà in, hiệu sách, nhà xuất bản, diễn đàn, rạp hát đã tạo nên một thị trường cạnh tranh lành mạnh, văn học trở thành một sản phẩm hàng hóa “có ganh đua, loại trừ”. Sự hình thành đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp cùng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của lớp công chúng mới có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của sáng tác văn học và tất yếu phải tìm đến sự phong phú về đề tài, kiểu loại để tránh nhàm chán và thu hút độc giả.

Với sự ra đời đồng loạt của các báo phái, văn phái như báo Ngày nay của nhóm Tự lực văn đoàn; tạp chí Văn mới của nhóm Hàn Thuyên; Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, tạp chí Ích hữu, Tao đàn của nhóm Tân dân… đã làm nên không khí “trăm hoa đua nở” của đời sống văn học hiện đại. Báo chí càng phát triển thì ngày càng được chuyên môn hóa cao: Có loại báo chí dành cho các ngành, các lĩnh vực (Tin mới thể thao, Hội Nam Kỳ Công Nông Thương gia…), có loại dành cho lứa tuổi (Đàn bà, Bạn gái, Tuổi ngọc, Nhi đồng hoa ban...), có loại giải trí (Ngọ báo, Vịt đực, Con ong…). Đặc biệt, phải kể đến sự hình thành của loại báo chí chuyên biệt (Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm, Tao đàn, Thanh Nghị, Tri tân …). Trong đó, không thể không kể đến vai trò của ba nhóm văn phái tiêu biểu xuất hiện cùng thời điểm năm 1941 là: Thanh Nghị, Hàn Thuyên Tri tân.

Thanh Nghị (1941-1945) là tờ tạp chí “nghị luận, văn chương, khảo cứu” do Vũ Đình Hòe làm chủ nhiệm. Nhóm Thanh Nghị đã tập hợp được lực lượng cộng tác chính là các trí thức tân học cấp tiến thuộc nhiều lĩnh vực như Vũ Văn Hiền, Phan Anh

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/01/2023