Dựa Trên Các Hệ Sinh Thái Tự Nhiên Điển Hình Với Tính Đa Dạng Sinh Thái Cao


1.1.2. Các đặc trưng của du lịch sinh thái

DLST là loại hình du lịch đặc thù so với các loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên khác vì tính ưu việt của nó đối với thiên nhiên, môi trường và xã hội. Nhìn chung DLST có những đặc trưng cơ bản như sau (Nguyễn Thị Sơn, 2000):

Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên và văn hóa bản địa:

DLST lấy tự nhiên và văn hóa bản địa làm cơ sở cho sự phát triển. Đó là các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên đặc thù, đặc biệt là nơi có tính đa dạng sinh học cao với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm; các giá trị văn hóa bản địa có sự hình thành và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái tự nhiên như: các phương thức canh tác, các lễ hội, sinh hoạt truyền thống dân tộc, v.v. Bên cạnh đó, DLST chỉ có thể phát triển trong điều kiện môi trường thuận lợi, đó là những khu tự nhiên còn tương đối hoang sơ, ít bị tác động lớn bởi các hoạt động của con người.

Hỗ trợ bảo tồn, đảm bảo bền vững về sinh thái:

DLST là một loại hình du lịch có quy mô và đang tăng trưởng ở nhiều nước. Một trong những lợi thế của DLST là việc nó tạo ra một sự thúc đẩy đối với việc bảo tồn. Nguồn lợi tài chính thu được từ lệ phí vào cổng và các lệ phí khác liên quan có thể bổ sung cho nguồn kinh phí bảo tồn (Kreg Lindberg, Donald E. Hawkins, 1999). Việc hổ trợ bảo tồn trong DLST được thể hiện ở hai khía cạnh. Một là, thông qua thu nhập từ du lịch có thể trích ra một phần để trả lương cho nhân viên bảo vệ, cải tạo tự nhiên, nghiên cứu và bảo vệ môi trường sống cho động, thực vật. Hai là, tạo điều kiện cho cư dân địa phương tham gia vào hoạt động du lịch và được hưởng lợi, có như vậy họ sẽ ủng hộ phát triển DLST, thậm chí bảo vệ địa điểm khỏi bị săn bắn trộm hoặc các xâm phạm khác.

Có hoạt động giáo dục và diễn giải về môi trường:

Giáo dục và diễn giải về môi trường là một trong số các đặc điểm quan trọng để phân biệt sự khác nhau giữa DLST với các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên khác. Thông qua các hoạt động giáo dục và diễn giải về môi trường nơi du khách đến tham quan bởi các nhà hướng dẫn, các biển báo, các tờ rơi, v.v, sẽ giúp du


khách có được những hiểu biết về giá trị của môi trường tự nhiên, những đặc điểm sinh thái khu vực và văn hóa bản địa. Với những hiểu biết đó, thái độ cư xử của du khách đối với môi trường sẽ thay đổi, điều đó được thể hiện bằng những nỗ lực tích cực hơn trong việc ra sức bảo vệ, giữ gìn và tôn trọng đối với môi trường.

Mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương:

Nếu như các loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên khác ít quan tâm đến việc mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương, và phần lợi nhuận từ các hoạt động du lịch đều thuộc về các công ty điều hành thì ngược lại DLST sẽ dành một phần đáng kể lợi nhuận từ hoạt động của mình để đóng góp nhằm cải thiện môi trường sống của cộng đồng địa phương.

Ngoài ra, DLST còn hướng tới việc huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương vào các hoạt động phục vụ du lịch như: đảm nhiệm vai trò hướng dẫn viên, đáp ứng chỗ ăn nghỉ, cung cấp các nhu cầu về thực phẩm, hàng lưu niệm, v.v, cho du khách thông qua đó sẽ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương. Nhờ đó mà cuộc sống của người dân địa phương ít phụ thuộc vào việc khai thác các thành phần tự nhiên, đồng thời họ sẽ nhận thấy được lợi ích của việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển DLST.

Thỏa mãn nhu cầu về kinh nghiệm du lịch cho du khách:

Một trong những đặc điểm của khách DLST là không đòi hỏi nhiều các nhu cầu về tiện nghi nhưng lại yêu cầu cao về thông tin và kinh nghiệm du lịch; thích tìm kiếm những thách thức về sức lực và tinh thần, ưa khám phá và mạo hiểm; mong muốn được giao tiếp với cư dân địa phương và tìm hiểu văn hóa bản địa, v.v. Qua những đặc điểm đó có thể nói khách DLST là những người thích khám phá những điều mới lạ bằng chính tinh thần và nghị lực của mình. Đối với họ đi du lịch là để có những hiểu biết về thiên nhiên và tích lũy những kinh nghiệm sống chứ không phải là tiện nghi. Cho nên, việc thỏa mãn mong muốn của khách tham quan với những kinh nghiệm du lịch lí thú là rất cần thiết và đây còn là yếu tố đảm bảo sự tồn tại lâu dài của ngành DLST. Bên cạnh đó, công tác bảo tồn để bảo vệ những gì mà du khách cần tham quan hơn là việc quá chú trọng đến các dịch vụ du lịch làm


hài lòng du khách mà có ảnh hưởng đến hệ sinh thái.

1.1.3. Các nguyên tắc của du lịch sinh thái

DLST được phát triển trên cơ sở những nguyên tắc hướng tới sự phát triển bền vững. Các nguyên tắc được đảm bảo trong DLST là các nguyên tắc không chỉ cho các nhà quy hoạch, quản lý, điều hành mà còn cho cả những hướng dẫn viên DLST. Cochrane đã tổng kết các nguyên tắc đó như sau (Nguyễn Thị Sơn, 2000):

- Sử dụng thận trọng những nguồn tài nguyên môi trường, kích thích sự bảo tồn và giảm thiểu các nguồn tiêu dùng gây rác rưởi.

- Phát triển ở mức độ nhỏ và hợp nhất với các ngành kinh tế khác hoặc với các chiến lược sử dụng lãnh thổ.

- Tạo nên những lợi ích kinh tế lâu dài cho cộng đồng địa phương, những người nên được quyền làm chủ trong sự phát triển và trong hoạch định.

- Các chiến dịch thị trường cần tôn trọng môi trường, du lịch không nên làm xói mòn nền văn hóa và xã hội địa phương.

- Có khả năng hấp dẫn số lượng khách du lịch ngày càng tăng và thường xuyên đáp ứng cho du khách những kinh nghiệm du lịch lý thú.

- Khách du lịch cần được cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về khu vực đến thăm, đảm bảo tính giáo dục cao.

1.1.4. Những yêu cầu của du lịch sinh thái‌

Đối với DLST, để hình thành và phát triển cần tuân thủ các yêu cầu sau đây: dựa trên các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao, đảm bảo tính giáo dục, sử dụng lãnh thổ du lịch phù hợp với bảo tồn, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương (Nguyễn Thị Sơn, 2000).

1.1.4.1. Dựa trên các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao

Sinh thái tự nhiên là sự cộng sinh của các điều kiện tự nhiên bao gồm: sinh thái động vật, sinh thái thực vật, sinh thái khí hậu, v.v (Phạm Trung Lương, 2002).

Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh


hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như: đất, nước, địa hình, khí hậu, v.v, đó là các hệ sinh thái và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (Phạm Trung Lương, 2002).

Như vậy có thể nói, DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với đa dạng sinh thái cao nói riêng và đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích vì sao hoạt động DLST thường chỉ phát triển ở các khu tự nhiên, đặc biệt ở các VQG (Phạm Trung Lương, 2002).

1.1.4.2. Đảm bảo tính giáo dục

Việc chủ động giáo dục gắn liền với bảo tồn có vai trò to lớn tạo nên sự bền vững cho DLST. Pigram đã nhận định: một trong những con đường có hứa hẹn nhất để đạt được mối quan hệ hòa hợp giữa du lịch với môi trường tự nhiên và xã hội là tăng cường giáo dục và thông tin. Quá trình này được thực hiện thông qua các nhà quản lý, điều hành và hướng dẫn viên (Nguyễn Thị Sơn, 2000).

Để nâng cao sự hiểu biết cho khách DLST và hướng hoạt động của họ theo chiều hướng có lợi cho môi trường nhất thiết phải có hướng dẫn viên am hiểu các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hóa cộng đồng địa phương để giới thiệu cho khách. Qua đó hình thành ở du khách lòng yêu quý và trân trọng thiên nhiên và văn hóa địa phương.

Trong DLST còn đòi hỏi phải có một hệ thống thông tin đầy đủ để cung cấp, hướng dẫn cho du khách. Đó là các ấn phẩm về VQG giới thiệu về đa dạng sinh học, nét độc đáo của văn hóa địa phương; các bảng chỉ dẫn và nội quy tham quan. Các thông tin này cần phải được phổ biến đến từng du khách thông qua hướng dẫn viên, trung tâm đón khách và các phương tiện, thiết bị tiếp nhận và phân phối thông tin trên tuyến tham quan (Nguyễn Thị Sơn, 2000) .

1.1.4.3. Sử dụng lãnh thổ du lịch phù hợp với bảo tồn

a. Khoanh vùng sử dụng lãnh thổ du lịch

Mô hình khoanh vùng hoạt động du lịch cho lãnh thổ một VQG được Gunn đưa ra như sau:



Vùng tài nguyên bảo vệ nghiêm ngặt

Đài quan sát

Vùng tự nhiên hoang dã sử dụng ở mức độ thấp

Đường đi bộ hoặc đi xuồng trên sông, suối

Vùng dành cho các hoạt động giải trí mở rộng hơn

Đường vào tham quan bằng ô tô

Các điểm hấp dẫn tự nhiên hoặc văn hóa

Trung tâm đón khách, bãi đỗ xe

Vùng dành cho du khách

Lối vào

Vùng dịch vụ du lịch của cộng đồng địa phương

Hình 1.2: Mô hình phân vùng hoạt động du lịch trong VQG

Nguồn: (Nguyễn Thị Sơn, 2000)

1). Vùng tài nguyên bảo vệ nghiêm ngặt: khu vực này được coi là vùng hạt nhân về tài nguyên, môi trường nên hầu như được bảo vệ nghiêm ngặt.

2). Vùng tự nhiên hoang dã, sử dụng ở mức độ thấp: ở đây chỉ có các lối mòn đi bộ hoặc dùng các thuyền nhỏ (nếu có sông, suối chảy qua) cho các hoạt động tham quan.

3). Vùng dành cho các hoạt động giải trí mở rộng hơn: ở đây có các tuyến tham quan bằng ô tô đến những điểm hấp dẫn về tự nhiên và văn hóa.

4). Vùng dành cho du khách (dã ngoại, cắm trại, nghỉ ngơi), trong đó có điểm đỗ xe đón khách tham quan vào tuyến trong.


5). Vùng dành cho các dịch vụ du lịch của cộng đồng: khu vực này thường ở lân cận cổng VQG hoặc giáp ranh với vùng đệm.

Gunn đã khẳng định, việc khoanh vùng trong phạm vi lãnh thổ của VQG để lượng khách chủ yếu tập trung trong những trung tâm dịch vụ sẽ không gây tác động lớn đến nguồn tài nguyên nhạy cảm và quý hiếm (Nguyễn Thị Sơn, 2000) .

b. Quản lý lượng khách phù hợp trên cơ sở sức chứa du lịch

Nhằm hạn chế đến mức tối đa các tác động có thể có của hoạt động DLST đến tự nhiên, văn hóa, môi trường, theo đó DLST cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về sức chứa.

Sức chứa du lịch là số lượng người cực đại mà hệ sinh thái ở khu du lịch có thể chấp nhận, không gây suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, không gây xung đột xã hội giữa cộng đồng địa phương và du khách, không gây suy thoái nền kinh tế truyền thống của cộng đồng bản địa” (Lê Huy Bá, 2006).

Từ khái niệm trên cho thấy, trong phát triển DLST sức chứa là yếu tố quan trọng hàng đầu, nó liên quan trực tiếp đến sự bền vững của khu, điểm du lịch và nó quyết định sự tồn tại của nền văn hóa bản địa. Sức chứa giải thích cho ta thấy một khu, điểm DLST chỉ chấp nhận một khối lượng khách và phương tiện chuyên chở nhất định (Lê Huy Bá, 2006).

Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có thể xác định một con số chính xác về sức chứa cho một khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có sức chứa khác nhau.

Để đơn giản, Boullón đưa ra một công thức chung để xác định sức chứa du lịch của một khu vực, chia thành yêu cầu khu vực do du khách sử dụng và tiêu chuẩn trung bình cho từng cá nhân (m2/người) (Phạm Trung Lương, 2002):

Khu vực do du khách sử dụng

Sức chứa =

Tiêu chuẩn trung bình cho mỗi cá nhân

Tiêu chuẩn không gian trung bình cho mỗi khách thay đổi phụ thuộc vào hình thức hoạt động du lịch.


Ví dụ: Hoạt động giải trí ở các khu du lịch

- Nghỉ dưỡng biển : 30 - 40 m2/người

- Hoạt động cắm trại ngoài trời : 100 - 200 m2/người

- Thể thao : 200 - 400 m2/người

Tổng số khách có thể tham quan mỗi ngày được tính:

Số lượng khách tham quan hàng ngày = Sức chứa x Hệ số luân chuyển

Thời gian khu vực mở cửa cho khách tham quan

Hệ số luân chuyển =

Thời gian trung bình của một cuộc tham quan

Theo Ceballos - Lascurain, sức chứa du lịch của một khu vực cụ thể còn liên quan đến các yếu tố như: chính sách cho du lịch và quản lý VQG, hiện trạng tham quan, các yếu tố ảnh hưởng đến điểm tham quan, khả năng phục vụ, v.v, (Nguyễn Thị Sơn, 2000):

Sức chứa tự nhiên (physical capacity): là số khách tối đa mà điểm tham quan có khả năng chứa.



PCC = A x V/a x Rf

Trong đó:

A - diện tích dành cho du lịch (Area for tourist use)

V/a - chi tiêu bình quân khách cho diện tích (số khách/m2, Visitor/area) Rf - Hệ số quay vòng (số lượt tham quan hàng ngày, Rotation factor)

mà Rf = Tổng thời gian mở cửa/Thời gian trung bình một lần tham quan

Sức chứa thực tế (real capacity): là sức chứa tự nhiên bị hạn chế bởi các điều kiện cụ thể của địa điểm tham quan như: môi trường, sinh thái, xã hội.

100 - Cf1

RCC = PCC x

100 - Cf2

x


x …x

100 - Cfn

100

100


100

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch sinh thái vườn quốc gia U Minh Thượng - tỉnh Kiên Giang - 4


Cf - các biến số điều chỉnh, nếu biểu thị bằng % sẽ là:



Ml

Cf =

x 100

Mt


Trong đó: Cf - biến số điều chỉnh

Ml - mức độ hạn chế của biến số Mt - tổng số khả năng của biến số

Các biến số điều chỉnh liên quan tới các đặc điểm và điều kiện cụ thể của mỗi tuyến, điểm tham quan và không nhất thiết giống nhau.

Sức chứa cho phép (enable capacity): là sức chứa thực tế bị hạn chế bởi các điều kiện liên quan đến mức độ quản lý du lịch. Chẳng hạn, mức độ đảm bảo yêu cầu quản lý chỉ đáp ứng X%, ECC sẽ là:



ECC = RCC x X/100

Như vậy, PCC luôn lớn hơn RCC và RCC lớn hơn ECC hoặc chỉ bằng khi mức độ quản lý đảm bảo 100%.

Sức chứa thay đổi tùy thuộc vào địa điểm, tính mùa, thời gian, thái độ của người sử dụng, các phương tiện, tình trạng và mức độ quản lý, cũng như đặc trưng động về môi trường của bản thân điểm du lịch.

c. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương

Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào DLST không phải chỉ vì lý do công bằng và bình đẳng mà còn vì họ có thể đóng góp được những kiến thức quý báu vào công tác quản lý, hướng dẫn về địa bàn phát triển DLST và đồng thời là yếu tố hấp dẫn du khách. Cho nên cộng đồng cần được tham gia vào quá trình ra quyết định, lập kế hoạch và quản lý DLST. Sự tham gia này có thể diễn ra với nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào quyền hạn và năng lực của cộng đồng địa phương.

Khi tham gia vào hoạt động DLST, cộng đồng có thể có thêm nguồn thu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/12/2023