Tiềm Năng Và Hiện Trạng Phát Triển Dlst Vườn Quốc Gia U Minh Thượng Tỉnh Kiên Giang


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Ngày nay, xu hướng chung của toàn thế giới coi du lịch nói chung, DLST nói riêng như là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, DLST đang trên đà chuyển mình và đã trở nên phổ biến đối với những người yêu thiên nhiên.

DLST được chấp nhận trên phạm vi quốc tế với những ý tưởng phát triển bền vững. Phát triển DLST không những đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững mà còn làm giảm các tác động của khách du lịch đến văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi từ du lịch và đóng góp những tài chính cho việc bảo tồn tài nguyên du lịch (Nguyễn Thị Sơn, 2000).

Tuy vậy, thật là nguy hại nếu DLST được nhìn nhận như là “liều thuốc bách bệnh tự động chữa trị cho tất cả những gì ốm yếu của du lịch”. Điều này được Koeman nhấn mạnh, DLST có thể chứ không phải tự động là một loại du lịch bền vững. Để đạt được sự bền vững, DLST phải đảm bảo cân bằng các mục tiêu kinh tế, môi trường và xã hội trong khuôn khổ các nguyên tắc và các giá trị đạo đức (Nguyễn Thị Sơn, 2000).

Trong DLST cần phải có hoạt động giáo dục môi trường, đồng thời phải được quản lý chặt chẽ dựa trên các nguyên tắc, yêu cầu nhằm duy trì sự thống nhất của môi trường tự nhiên, đảm bảo những lợi ích tối đa cho địa phương và giảm thiểu các tác động tiêu cực của du lịch mà suy cho cùng cộng đồng địa phương phải gánh chịu.

Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng về du lịch nói chung và DLST nói riêng, đặc biệt với hệ thống các VQG và các KBTTN là những khu vực có khả năng rất lớn trong việc hình thành, phát triển DLST và thu hút du khách. Tuy nhiên, hiện tại DLST ở Việt Nam chưa thật sự phát triển mạnh mẽ tương xứng với tiềm năng vốn có của mình, đồng thời những địa bàn có hoạt động DLST đúng nghĩa thật sự chưa nhiều. Có nhận định: Loại hình DLST ở Việt Nam mới chỉ chú trọng đến các mục tiêu về môi trường và về sức khỏe chứ chưa mang ý nghĩa giáo dục về trách nhiệm bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường tự nhiên và phát huy những giá trị văn hóa cao đẹp của các dân tộc và các lợi ích khác (Lê Huy Bá, 2006).


Chương 2. TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DLST VƯỜN QUỐC GIA U MINH THƯỢNG TỈNH KIÊN GIANG‌‌


2.1. Giới thiệu về VQG U Minh Thượng‌

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển VQG U Minh Thượng‌

VQG U Minh Thượng được thành lập theo quyết định của chính phủ Việt Nam năm 1993 (Buckton etal.1999). Cùng năm này kế hoạch đầu tư đã được Bộ Lâm Nghiệp trước đây thẩm định và phê duyệt (cục Kiểm Lâm, 1998). Năm sau đó, Khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng và Hội đồng quản lý khu di tích Lịch sử đã được thành lập để giám sát về tổ chức khu vực và quản lý nguồn kinh phí của Chính Phủ thông qua chương trình 327 Quốc Gia (N.sage và M.Greve 2000).

Ngày 14/01/2002, quyết định số 11/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về chuyển hạng khu BTTN U Minh Thượng thành VQG. Vườn quốc gia U Minh Thượng có diện tích 21.107 ha, trong đó vũng lõi chiếm 8.038 ha, vùng đệm chiếm 13.069 ha.Cũng theo quyết định này, VQG U Minh Thượng thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Kiên Giang. Đây là loại rừng với hệ sinh thái rừng nhiệt đới ngập nước thuộc loại rất hiếm trên thế giới.

Theo bản kế hoạch đầu tư mới, Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng và hộ đồng quản lý khu di tích lịch sử đã được cấu trúc lại thành Ban quản lý VQG theo quyết định số 49/QĐ-UB ngày 8/7/2002 của UBND tỉnh.

Hiện tại, BQL có 58 cán bộ và 8 trạm bảo vệ rừng, Bản quy hoạch đầu tư mới đã được xây dựng năm 2003 (Thái Thành Lượm Giám đốc vườn quốc gia U Minh Thượng, 2003).

U Minh Thượng có tên trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng bởi Cục kiểm lâm và BNN & PTNT với diện tích 8053ha ( cục kiểm lâm,2003) danh lục này hiện vẫn chưa được chính phủ phê duyệt.

Năm 2007, VQGUMT được UNESCO công nhận là một khu vực quan trọng thuộc Khu Dự Trữ Sinh Quyển Kiên Giang.


2.1.2. Mục tiêu thành lập VQG U Minh Thượng‌

- Bảo vệ hữu hiệu tài nguyên đa dạng sinh học của VQG U Minh Thượng. Bảo tồn đa dạng sinh học cho 387 loài thực vật, 172 loại côn trùng, 66 loại cá, 7 loại ếch nhái, 31 loại bò sát, 172 loài chim và 32 loài thú trong đó có 4 loài được xếp vào sách đỏ Việt Nam năm 2007, 7 loài có trong nghị định 32/2006/ND/CP của Chính Phủ. Một số loài rất hiếm trong nước như rái cá lông mũi, rái cá vuốt bé, mèo cá, cầy giông đốm lớn… Trong đó có nhiều loài quý hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng trên quy mô toàn cầu.

- Phòng chống cháy hiệu quả rừng tràm trên đất than bùn và đánh giá khả năng phục hồi một cách tự nhiên của rừng tràm sau cháy.

- Phát triển, mở mang DLST tạo điều kiện cho người dân trong khu vực có thêm thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo; Đồng thời nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên môi trường trong nhân dân.

- Thu hút các nguồn tài trợ quốc tế phục vụ cho mục đích bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH. Góp phần tăng cường sức mạnh cho tuyến phòng thủ phía Tây Nam của Tổ Quốc.

2.1.3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý VQG U Minh Thượng‌

Hiện nay, ban quản lý VQG U Minh Thượng có 58 cán bộ và 8 trạm bảo vệ rừng. VQG U Minh Thượng thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Kiên Giang và Bộ Nông Nghiệp và PTNT. Mọi hoạt động tổ chức du lịch của VQG U Minh Thượng đều do Ban Giám Đốc và phòng du lịch sinh thái và giáo dục môi trường.


Bộ Nông Nghiệp và PTNT

UBND Tỉnh Kiên Giang

VQG U Minh Thượng


Ban Giám Đốc

Phòng quản lý bảo vệ tài nguyên

rừng

Phòng tổ chức hành chính

Phòng Nghiên cứu Khoa học và Môi trường

Phòng kếhoạch tài chính

Phòng du lịch sinh thái và giáo dục môi trường


Hình 2.1: Sơ đồ nhân sự trung tâm DLST VQG U Minh Thượng

Nguồn: Ban quản lý VQG U Minh Thượng

2.1.4. Các khu chức năng‌

Ngày 14/01/2002, quyết định số 11/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về chuyển hạng khu BTTN U Minh Thượng thành VQG. Theo quyết định này,có các phân khu chức năng như sau:

Bảng 2.1: Các phân khu chức năng tại VQG U Minh Thượng


Phân khu chức năng

Diện tích

Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt

7838 ha

Phân khu phục hồi sinh thái

200ha

Phân khu hành chính và dịch vụ

15 ha

Tổng diện tích

8053ha

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch sinh thái vườn quốc gia U Minh Thượng - tỉnh Kiên Giang - 7

(Theo quyết định số 11/2002/QĐ-TTg)


2.2. Tiềm năng phát triển DLST‌

2.2.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ‌

VQG U Minh Thượng nằm trên địa bàn xã An Minh Bắc và xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang có toạ độ địa lí là: Từ 9°31 đến 9°39' vĩ Bắc và từ 105°03' đến 105°07' kinh độ Đông.

Phạm vi ranh giới:

- Phía Đông giáp huyện Vĩnh Thuận.

- Phía Tây giáp huyện An Biên, An Minh.

- Phía Bắc giáp huyện Gò Quao.

- Phía Nam giáp huyện Thới Bình của tỉnh Cà Mau.

Rừng nằm trong địa giới của huyện U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng bán đảo Cà Mau. Với tổng diện tích là 8053ha, ở phía Bắc một vùng đầm lầy than bùn rộng lớn thuộc 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau. VQG U Minh Thượng nằm trong vùng ngập nước ngọt bao gồm trên vùng đất than bùn, trảng cỏ ngập nước theo mùa và vùng đầm lầy trống. Đến U Minh Thượng, du khách sẽ được tận hưởng không khí trong lành cùng với không gian khoáng đãng, tha hồ nhìn ngắm chim muông, thú rừng, và các loài động thực vật. Nhiều địa chỉ để các bạn tham quan như mảng chim, mảng dơi quạ, tràm nguyên sinh, quần thể heo rừng, rái cá, kỳ đà, và đặc biệt là khu giải trí câu cá Hồ Hoa Mai...

2.2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên‌

2.2.2.1. Tài nguyên sinh vật

Lớp phủ thực vật

Mặc dù rừng tràm chiếm ưu thế trong phần lớn khu vực đầm lầy than bùn, nhưng hệ thực vật trong VQG U Minh Thượng cũng khá đa dạng. Dựa vào mật độ che phủ và thời gian sinh trưởng của tràm, sự chen lẫn của các loài thực vật với nhau và các quần xã thực vật khác, có nhiều đơn vị lớp phủ được ghi nhận trong khu vực VQG U Minh Thượng. Dưới đây là một số kiểu lớp phủ thực vật chính trong VQG U Minh Thượng:


Bảng 2.2: Diện tích các kiểu lớp phủ thực vật VQG U Minh Thượng


STT

Kiểu lớp phủ

Diện tích

(ha)

1

Rừng tràm

3446,43

2

Rừng tràm chen lấn cây bụi và thực vật thủy sinh

2851,39

3

Thực vật thủy sinh

1404,63

4

Mặt nước và thực vật thủy sinh

213,10

5

Sậy và cây tạp

137,45

Tổng

8053,00

(Lớp thực vật của tỉnh Kiên Giang. Nxb Kiên Giang, Tr 68-129)

Rừng Tràm: Hiện trạng cho thấy rừng tràm với độ che phủ từ 20-80% chiếm ưu thế trong toàn bộ khu vực VQG U Minh Thượng. Với diện tích 3446,43 ha trong đó với 1595,04 ha trồng rừng tràm với mật độ từ thưa đến dày. Mặc dù phần lớn tràm bị chết do trận cháy năm 2002, nhưng vẫn còn lại một lượng lớn tràm được xem là rừng tràm bán tự nhiên còn lại trên đầm lầy than bùn.

Theo kết quả phân chia trong đơn vị rừng tràm, có 5 đơn vị lớp phủ rừng tràm trong khu vực VQG: 1, tràm trưởng thành mật độ dày ; 2, tràm trưởng thành mật độ trung bình ; 3, tràm trưởng thành mật độ thưa ; 4, tràm nhỏ mật độ dày ; 5, tràm vừa mật độ trung bình.

Trong đó tràm trưởng thành mật độ dày là dãy rừng tràm còn sót lại sau trận cháy năm 2002, với diện tích khoảng 370,75 ha. Hầu hết tràm có mật độ trung bình với độ che phủ trên 70% và có độ tuổi trên 17 năm. Một dãy tràm nằm cạnh kênh Ngang là chỗ cho cộng đồng Dơi làm nơi trú ngụ.

Đối với tràm trưởng thành mật độ trung bình thì đây cũng là dãy tràm còn lại sau trận cháy năm 2002, với diện tích khoảng 182,30 ha. Tràm có độ tuổi trên 14 năm và độ che phủ trung bình từ 40-60%. Phần lớn dãy rừng tràm này nằm cạnh dãy rừng tràm trưởng thành có mật độ dày. Giữa những cụm tràm có sự sống của những nhóm thực vật khác như sậy, bèo tai chuột, bèo cái…nhưng mật độ không nhiều.


Tràm trưởng thành mật độ thưa đây là những dãy tràm có chiều ngang khá nhỏ phần lớn tràm đều lớn tuổi phân bố không đều theo các kênh rạch nhỏ bên trong VQG. Chiếm diện tích khoảng 358,05 ha, các cụm tràm này qua quan sát cho thấy đều có độ tuổi trên 14 năm.

Tràm nhỏ mật độ dày, đây là cánh rừng tràm có độ tuổi từ 9-10 năm, có độ che phủ trên 70% ở khu trung tâm của VQG, với diện tích khoảng 243,89 ha. Tràm phát triển trên khu vực tầng than bùn có độ dày lớn nhất (>1m), nên có địa hình cao nhất khu vực VQG U Minh Thượng. phía ngoài là những cánh tràm thưa chen lẫn cây bụi hoặc cây thủy sinh.

Tràm tuổi trung bình mật độ trung bình bao bọc xung quanh rừng tràm có mật độ dày hoặc hoặc một số cụm tràm nằm rải rác trên các con rạch nhỏ trong khu vực VQG U Minh Thượng. Là cánh rừng tràm tái sinh trung bình có độ che phủ từ 40-60%. Diện tích của cánh rừng này chiếm khoảng 200,33 ha. Do mật độ tràm trung bình nên chen giữa thường có những cây bụi như sậy, bèo cái…

Rừng tràm chen lấn cây bụi và thực vật thủy sinh

Trong khu vực VQG U Minh Thượng có một diện tích khá lớn khoảng 2851,39 ha rừng tràm phát triển chen lấn cây bụi và thực vật thủy sinh. Chính sự hiện diện của các loài thực vật khác đã làm tăng sự đa dạng sinh học thực vật trong khu vực đất than bùn U Minh Thượng.

Dựa vào mật độ tràm và mật độ các thực vật khác chen lấn có thể chia làm 7 đơn vị phụ được ghi nhận: 1, tràm nhỏ, mật độ dày xen sậy ; 2,tràm lớn xen sậy và bèo cái ; 3,tràm nhỏ mật độ trung bình xen sậy ; 4,tràm nhỏ thưa xen với bèo cái ; 5,tràm trung bình mật độ thưa xen với choại ; 6, tràm trung bình mật độ thưa xen với bồn bồn ; 7,tràm thưa xen sậy ; 8,tràm nhỏ, mật độ thưa xen sậy.

Thực vật thủy sinh

Trong điều kiện ngập nước quanh năm ngoài tràm cộng đồng thực vật thủy sinh với nhiều loài phát triển trong khu vực VQG U Minh Thượng. Phổ biến nhất là bèo cái, bèo tai chuột, bồn bồn, rong đuôi chồn, súng ma, thủy nữ ấn…


Dựa vào tính đồng nhất và ưu thế của một số loài thực vật khác nhau trong quần xã, một số lớp phủ của quần xã thực vật thủy sinh được phân chia trong khu vực VQG U Minh Thượng. Trong đó quần xã bèo cái xen lẫn thủy sinh khác lên đến 1404,63ha.

Bèo cái phát triển khá nhiều trong khu vực VQG U Minh Thượng hiện diện từ các kênh rạch đến các cánh rừng, những vùng ngập nước. Theo những khu vực kênh, rạch bèo cái làm trở ngại việc đi lại, di chuyển tàu ghe.

Mặt nước và thực vật thủy sinh

Do địa hình thấp và bị ngập nước nhiều năm nên một khu vực có diện tích khá lớn khoảng 213,1 ha. Được đánh giá là vùng mặt nước với một ít loài thực vật thủy sinh đang sinh sống. Quần xã thực vật thủy sinh chủ yếu đang sinh sống được ghi nhận ở khu vực này chủ yếu là bồn bồn, súng ma, bèo cái, rong đuôi chồn. Vài nơi trong khu ngập nước cao có súng ma phát triển, loài Năng Ống vẫn thấy xuất hiện từng đốm nhỏ. Những nơi như vậy là dấu vết của một khu đồng cỏ ngập nước theo mùa trước đây bi ngập từ năm 2003 đến nay. Tràm cũng xuất hiện với từng cụm nhỏ phân bố rải rác với mật độ khoảng 1-2% diện tích vùng mặt nước.

Sậy và cây tạp

Một quần xã thực vật gồm sậy và những cây tạp phân bố dọc 2 bên bờ kênh bên trong và kênh rãnh của VQG. Với diện tích khoảng 137,45 ha. Ngoài cây sậy còn nhiều loài thực vật từ than gỗ đến cây bụi, thân leo.

Nhóm cây gỗ chiếm ưu thế là tràm, có nơi có Trâm Bầu, Gáo Vàng, Khuynh Điệp được trồng xen lẫn vào những dãy Sậy. Sậy chiếm ưu thế trong loài thân thảo, trên bờ nếu có trảng trống thì thường gặp cỏ ống, những thực vật ký sinh có thể gặp như Choại, Giây Giác, Bòng bong…đeo bám những thân cây gỗ ngay cả những thân cây sậy.

Hệ thực Vật

Trần Triết đã nghiên cứu về thảm và hệ thực vật dựa vào ảnh vệ tinh landsat chup tháng 11/1998, kết hợp với khảo sát thực địa tác giả đã xác định được 243 loài thuộc 84 họ và khẳng định về sự phong phú của các thành phần loài thuộc họ: Họ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/12/2023