Bảng 1.1. Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi các
khu vực của các nước đang phát triển từ 1975-2010 [200].
Năm | 1975 | Năm | 1990 | Năm | 1995 | Năm | 2010 | |
% | Triệu | % | Triệu | % | Triệu | % | Triệu | |
Châu Phi | 30,4 | 22,9 | 27,3 | 31,6 | 27,0 | 34,8 | 28,5 | 24,8 |
Châu Mỹ la tinh | 15,6 | 7,5 | 11,5 | 6,4 | 10,8 | 6,0 | 8,0 | 5,4 |
Châu Á | 47,8 | 164,6 | 41,3 | 154,6 | 40,0 | 158,6 | 24,0 | 88,3 |
Các nước chậm phát triển | 42,6 | 195,6 | 35,8 | 193,4 | 34,6 | 199,8 | 33,6 | 105,9 |
Tòan thế giới | 34,6 | 198,6 | 31,3 | 195,8 | - | - | 26,0 | 167,0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - Bắc Giang, 2006-2008 - 1
- Trình Độ Văn Hóa Thấp Và Thiếu Kiến Thức Dinh Dưỡng Gây Ảnh Hưởng
- Các Số Đo Nhân Trắc Trong Đánh Giá Tình Trạng Dinh Dưỡng
- Các Bước Tiến Hành Xây Dựng Chương Trình Can Thiệp Dinh Dưỡng
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
% giảm trong 5 năm tới để đạt mục tiêu | ||||||
Giai đoạn | 1975- 1980 | 1980- 1985 | 1985- 1990 | 1990- 1995 | 1995- 2010 | 2010-2015 |
Mức giảm (%) | 5,2 | 6,2 | 5,5 | 3,4 | 3,2 | 4,3 |
1.3. Xu hướng của thực trạng SDD trẻ em ở Việt Nam.
Tỷ lệ SDD trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi qua các cuộc điều tra quốc gia
cho thấy [35], [42]:
Bảng 1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam qua các cuộc điều tra quốc gia [35], [42]
SDD CN/T (%) | SDD CC/T (%) | |
Thời kỳ 1981-1985 | 51,5 | 60,9 |
Năm 1994 | 44,9 | 46,9 |
Năm 2000 | 33,8 | 36,5 |
Năm 2010 | 17,5 | 29,3 |
Biểu đồ 1.2. Xu hướng thực trạng SDD của trẻ em ở Việt Nam
Qua các số liệu trên cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam đang giảm đi.
Trong thời gian gần đây, cùng với những thành tựu bước đầu của một nền kinh tế đang trên đà đổi mới và những nỗ lực của các chương trình dinh dưỡng và sức khỏe, nhiều nghiên cứu cắt ngang tại các thời điểm khác nhau
cho thấy mức giảm khá nhanh về tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt các vùng thành phố và đồng bằng. Tuy vậy, suy dinh dưỡng protein - năng lượng ở trẻ em vẫn còn là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và phát triển ở nước ta. Từ sau năm 1990, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta đã giảm đi rõ rệt, tốc độ giảm nhanh đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay, suy dinh dưỡng vẫn còn cao, đặc biệt là tỷ lệ thấp còi và sự chênh lệch về tỷ lệ suy dinh dưỡng theo địa lý là rất đáng kể [39]. Bên cạnh đó, thiếu vitamin A tiền lâm sàng, thiếu máu do thiếu sắt vẫn còn là thách thức dinh dưỡng lớn, nhất là ở các vùng nghèo, vùng khó khăn [43], [44].
1.4. Nguyên nhân của suy dinh dưỡng trẻ em
Suy dinh dưỡng protein - năng lượng (PEM) là kết quả của một quá trình thiếu hụt dinh dưỡng trong một thời gian dài dẫn đến thiếu hụt tổng lượng calo kèm theo thiếu hụt protein [48], [49], [62], nhất là thiếu hụt các axit amin thiết yếu. Quá trình đó vừa tác động đến sự tăng trưởng thể lực của trẻ, vừa ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện các chức phận cấu tạo tế bào, mô cũng như chức năng sinh lý khác của trẻ.
1.4.1. Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng do thiếu protein năng lượng được coi là vấn đề dinh dưỡng chủ yếu của các nước đang phát triển như châu Phi, châu Á, Nam Mỹ, khu vực Trung Đông [95]. Trong đó, các nước thuộc châu Phi có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất. Đó là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và thiên tai kéo dài, sản xuất đình trệ, nhất là sản xuất nông nghiệp kém phát triển. Trình độ dân trí thấp và sinh đẻ thiếu kế hoạch là những nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng protein năng lượng cao. Bảng
1.1 ở trên đã cho hình ảnh tổng quát về tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng trẻ em theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi theo khu vực được UNICEF và WHO thống kê đến hết năm 2010.
1.4.2. Khẩu phần và chất lượng bữa ăn không đảm bảo
Đặc điểm sinh lý học và nhu cầu năng lượng của trẻ em trong độ tuổi ăn bổ sung.
Lứa tuổi ăn bổ sung (hay còn gọi là ăn sam, ăn dặm...) là một giai đoạn phát triển rất quan trọng của cơ thể. Về hình thức đây là giai đoạn chuyển tiếp từ bú mẹ hoàn toàn đến cai sữa. Về mặt sinh lý học, lứa tuổi này đảm đương những chức năng phát triển hệ thống căn bản như hệ miễn dịch, hệ thần kinh [21]. Các cơ quan và tổ chức mô, não bộ, bộ xương, trí tuệ và thể lực, chức năng sinh lý… ở trẻ em được hình thành chủ yếu trong thời gian đến 3 tuối (Marberly G) [78]. Giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng ở lứa tuối này sẽ làm cho trẻ tiếp tục phát triển bình thường như thời kỳ còn bú mẹ, tạo đà cho cả quá trình phát triển về sau, góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em nói chung.
Theo bảng Nhu cầu năng lượng của Viện Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, trong đó có nêu rõ khẩu phần cho trẻ em thì nhất thiết cần chú ý tỷ lệ hợp lý (tính bằng %) Protit/ Lipid/ Gluxit bước đầu là 12/18/70, tiến tới 14/20/66 [10] (Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Giá trị năng lượng và nhu cầu Protein khuyến nghị cho trẻ em dưới 10 tuổi [10]
Nhu cầu năng lượng (Kcal) | Nhu cầu Protein (g) * | |
Dưới 6 tháng | 620 | 21 |
Từ 6-12 tháng | 820 | 23 |
Từ 1-3 tuổi | 1300 | 28 |
Từ 4-6 tuổi | 1600 | 36 |
Từ 7-9 tuổi | 1800 | 40 |
*. Trong đó Protein động vật phải chiếm từ 25-30%.
Đối với nhu cầu chất khoáng và vitamin, tài liệu cũng đã tính toán và
đưa ra mức nhu cầu khuyến nghị như sau (Bảng 1.4).
Bảng 1.4. Nhu cầu chất khoáng và vitamin khuyến nghị cho trẻ em [11]:
Chất khoáng (mcg) | Vitamin (mcg) | ||||||
Can-xi | Fe | A | B1 | B2 | PP | C | |
Dưới 6 tháng | 300 | 10 | 325 | 0,3 | 0,3 | 5 | 30 |
Từ 6-12 tháng | 500 | 11 | 350 | 0,4 | 0,5 | 5,4 | 30 |
Từ 1-3 tuổi | 500 | 6 | 400 | 0,8 | 0,8 | 9 | 35 |
Do ở nước ta, trẻ em chưa có tập quán (hoặc điều kiện) ăn sữa và các loại thức ăn nhân tạo dành cho trẻ nhỏ, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đối với trẻ ở lứa tuổi này, đặc biệt là trẻ ở nông thôn, chủ yếu là bột gạo. Thực tế đó tạo nên mâu thuẫn lớn giữa nhu cầu và giải pháp, giữa một bên là bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh với một bên là nguồn thực phẩm không giàu năng lượng.
Có thể lấy lứa tuổi 6-12 tháng là những trẻ đã quen ăn bột, có nhu cầu năng lượng 820 Kcal/ngày làm đại diện cho nhóm trẻ ăn bột. Đây cũng là nhóm trẻ vẫn tiếp tục bú mẹ và bắt đầu ăn sam để tiến tới độc lập với sữa mẹ. Thử tính phần ăn sam cung cấp tương ứng 1/2 hoặc 2/3 nhu cầu nói trên, với giá trị năng lượng của bột gạo khoảng 350 Kcal/100g, thì mỗi ngày trẻ phải tiêu thụ từ 120 đến 170 gam bột khô. Với những trẻ không bú sữa mẹ thì phải ăn đến 240 gam bột khô mỗi ngày mới đủ nhu cầu năng lượng. Quả là một khẩu phần quá lớn đối với một đứa trẻ còn nhỏ. Đây cũng chính là một nguyên nhân quan trọng và phổ biến gây ra tỷ lệ suy dinh dưỡng protein - năng lượng cao ở lứa tuổi này.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống nhà trẻ hoàn chỉnh ở giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì không còn khó khăn cho hoạt động truyền thông giáo dục dinh dưỡng, nhu cầu thức ăn chế biến sẵn càng trở nên bức xúc.
Việc giải đáp nhu cầu đó đòi hỏi những giải pháp cụ thể và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của từng đối tượng trong đó trẻ em nông thôn là một đối tượng phổ biến.
Giải quyết nhu cầu năng lượng cho đối tượng này còn phải tính đến tiềm năng sẵn có trên địa bàn và khả năng kinh tế của từng hộ gia đình, đó là khả năng tự cung tự cấp từ mô hình VAC, mức thu nhập thấp của một bộ phận quan trọng các gia đình nông thôn thuộc nhóm hộ đói nghèo (chiếm tỷ lệ khoảng trên 30%).
1.4.3. An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo
An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo là yếu tố quan trọng dẫn đến thiếu lương thực về số lượng và chất lượng - bao gồm thiếu năng lượng, protein và vi chất dinh dưỡng [117], [94], [47].
Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn còn cao. Đó chính là nguyên nhân tiềm tàng đe dọa tình trạng thiếu dinh dưỡng cá thể. Ngoài ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố phụ thuộc vào khả năng tiếp cận thực phẩm ở từng hộ gia đình mà cụ thể là phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức dinh dưỡng của từng cá thể, từng gia đình và phong tục tập quán kiêng khem của từng nhóm dân tộc.
Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng ngay ở khu vực đồng bằng Bắc bộ và Trung du cho thấy chưa xác lập được an ninh lương thực hộ gia đình. Tình trạng thiếu ăn ở một số địa phương còn phổ biến: Vào lúc giáp hạt, năm 1996 có 97,2% số hộ gia đình ở tỉnh Quảng Bình thiếu ăn với số tháng thiếu ăn cao nhất là 8 tháng/năm [17]. Tổng Điều tra Dinh dưỡng toàn quốc năm 2010 gần đây cũng cho thấy vẫn còn từ 10-25% số hộ thiếu đói lương thực vào thời điểm giáp hạt [26], [28].
Tình trạng mất an ninh thực phẩm theo mùa là một vấn đề rất đáng quan tâm. Đây vẫn còn là một tồn tại khá phổ biến; ở những hộ nghèo, có
33% gia đình thiếu ăn trước thời vụ và 19% gia đình trong tình trạng thiếu ăn
sau thu hoạch [28].
1.4.4. Thực hành dinh dưỡng kém
Thực hành dinh dưỡng kém liên quan đến sự mất cân đối trong bữa ăn và sự lựa chọn ưu tiên hợp lý cho đối tượng là trẻ em và người mẹ mang thai [69], [80]. Ngay cả khi một hộ gia đình đảm bảo được an ninh lương thực vẫn có thể thiếu lương thực thực phẩm đối với cá thể, nhất là các cá thể có nguy cơ cao như trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai… mà nguyên nhân chủ yếu là do thực hành dinh dưỡng. Hai yếu tố nhạy cảm nhất trong thực hành dinh dưỡng ở trẻ em là sữa mẹ và chế độ ăn bổ sung.
a) Vấn đề sữa mẹ:
Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên của trẻ em. Ngoài việc cung cấp chất dinh dưỡng hợp lý về số lượng, sữa mẹ được đảm bảo sự cân đối lý tưởng giữa các chất dinh dưỡng và là nguồn cung cấp các chất globulin miễn dịch từ thức ăn duy nhất của đứa trẻ (Hanson, Lars A.et.al) [64]. Hàm lượng và tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ của phụ nữ Việt Nam tương đương với các nước khác (Bùi Thị Nhu Thuận, [38]). Tuy nhiên, phần lớn trẻ em, đặc biệt là ở các nước kém phát triển và đang phát triển, thời gian bú sữa mẹ chưa được đảm bảo, nhất là thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn (De Zoysa, I., M.Rea and J.Martines, 1991)[54].
Bảng 1.5. Tình hình bú sữa mẹ ở các khu vực trên thế giới và Việt Nam
(Viện Dinh dưỡng) [93]
Năm | Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ | Tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu | |
Chung các nước đang phát triển – Trong đó: | 2009 | 87,3% | 22,4% |
Châu Á | 2009 | 89,7% | 29,6 % |
Châu Phi | 2009 | 96,2 % | 32,7% |
Khu vực cận Sahara –châu Phi | 2009 | 27,3% | |
Khu vực Nam Á | 2009 | 87,4 % | 22,1% |
Một số quốc gia: | |||
Brunei | 2009 | 81,5 % | 28,1% |
Indonesia | 2008 | 88,7 % | 17,8 % |
Nhật Bản | 2009 | 96,8 % | 46,7 % |
Singapore | 2005 | 92 % | 49,6% |
Việt Nam (Số liệu giám sát dinh dưỡng của Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế) | 2009 | 93,5% | 19,6 % |
Rõ ràng tình hình nuôi con bằng sữa mẹ là vấn đề đang quan tâm vì có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, trong khi tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn ở nước ta vẫn còn quá thấp.