Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB + và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk - 15


trình phòng chống lao Quốc gia – DOTS). Hoặc đối tượng NCMT được tiếp

cận lần điều tra sau can thiệp là những đối tượng NCMT mới.

Như vậy, từ kết quả nghiên cứu cho biết 03 chỉ số: Tỷ lệ hiện nhiễm HIV (+), tỷ lệ về tình trạng mắc bệnh lao có AFB (+) và tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao trên nhóm nghiện chích ma túy có chiều hướng giảm sau 12 tháng can thiệp cộng đồng. Tuy nhiên chiều hướng giảm không đủ cơ sở khoa học để quy kết về hiệu quả của quá trình can thiệp công đồng trên cơ sở dựa vào CSHQ của các tỷ lệ nhiễm này. Kết quả này dễ hiểu bởi quá trình can thiệp cộng đồng phòng chống HIV chỉ có tác dụng làm tăng kiến thức, thái độ cũng như những thực hành để làm giảm quá trình lây lan HIV. Hơn nữa, như chúng ta đã biết cho đến hiện nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho HIV. Tuy nhiên đứng về sức khỏe cộng đồng, các chỉ số trên đều mong muốn giảm, điều đó đã thể hiện ở kết quả sau khi can thiệp so sánh với kết quả trước khi can thiệp, song khi được kiểm định bằng thống kê, sự chênh lệch trên không có ý nghĩa (p > 0,05). Điều này có thể nhìn nhận một cách như sau: Hiệu quả một năm can thiệp đã có những chuyển biến tích cực, nhưng thời giam chưa đủ dài và chưa đủ độ mạnh, dẫn đến sự kết hợp còn yếu làm cho các yếu tố tích cực đó khi tác động đến quần thể NCMT để làm thay đổi về tỷ lệ hiện nhiễm HIV và bệnh lao có AFB (+) còn thấp so với toàn bộ quần thể của đối tượng nghiên cứu sau khi can thiệp. Hiệu quả trên cũng nhận thấy ở các chỉ số về nhận thức, thay đổi hành vi và thay đổi thái độ còn có một tỷ lệ không nhỏ trong nhóm NCMT đã quan niệm sai lệch về đường lây, sai lệch về cách phòng dẫn đến có những thái độ thiếu tích cức và hành vi nguy cơ cao còn thể hiện như: Sau khi can thiệp, nhóm đối tượng NCMT không hiểu biết đầy đủ và toàn diên về tác nhân, đường lây, chiếm 16,6%. Trong đó có 13,6% đối tượng cho rằng muỗi cắn cũng có thể là đường truyễn HIV, ăn chung với người nhiễm HIV cũng bị lây, chiếm 7,3%; Dùng chung BKT không lây truyền HIV, chiếm 15%. Từ đó dẫn đến đối tượng có thể không chấp nhận các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS. Đây cũng là một lý do làm cho việc lây


nhiễm HIV trong cộng đồng vẫn tiếp tục và cũng là vấn đề y tế công cộng cần quan tâm đầu tư nhiều hơn.

Một thay đổi đáng kể nữa đã được ghi nhận trong nghiên cứu và được đánh giá mô hình can thiệp có chiều hướng tích cực, coi đây là một thành công và chính đây là kết quả can thiệp cộng đồng. Việc tăng cường Thông tin

– Giáo dục - Truyền thông vẫn là một trong những biện pháp tốt nhất, một liều thuốc dự phòng hiệu quả “vắc xin” trong chiến lược phòng, chống HIV/AIDS và các bệnh nhiễm trùng cơ hội, trong đó có bệnh lao. Sự phối hợp nhiều kênh truyền thông, nhiều cách tiếp cận, gián tiếp hoặc trực tiếp đã và đang chuyển biến tích cực về kiến thức cho cộng đồng và từng nhóm đối tượng, đặc biệt nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao như NCMT. Kiến thức của từng đối tượng được nâng lên, ít nhiều cũng tác động đến suy nghĩ, tư tưởng, sự cân nhắc và do dự để làm chủ bản thân, có niềm tin hơn trong cuộc sống khi họ chuẩn bị thực hiện một hành vi không có lợi cho sức khỏe. Trong nghiên cứu này, cho thấy kết quả can thiệp đã được minh chứng qua các chi số kiến thức về tác nhân và đường lây truyền HIV như sau: Tại thời điểm sau can thiệp ở nhóm nghiện chích ma túy có kiến thức đầy đủ và toàn diện về tác nhân và đường lây truyền HIV, có chiều hướng tăng hơn so với thời điểm trước can thiệp (tăng từ 71,1% lên 83,4%), có ý nghĩa thông kê, với p < 0,05 và CSHQ = 17,3%. Nếu xét về từng chỉ số đối với từng kiến thức riêng lẻ như về tác nhân và đường lây nhiễm HIV có tỷ lệ dao động. Trước khi can thiệp, tỷ lệ riêng lẻ dao động từ 85,2% đến 89,3%. Sau khi can thiệp đã tăng trên 90% trở lên, tỷ lệ dao động từ 93,4% đến 97,7% và CSHQ sau can thiệp dao động từ 9,4% đến 14,4% (Bảng 3.32). Từ kiến thức hiểu biết đầy đủ và toàn diện được nâng cao, dẫn đến có sự tương đồng so với hiệu quả kiến thức hiểu biết về cách phòng lây nhiễm HIV mà được đối tượng phản hồi cũng được nâng cao. Hiệu quả này được thể hiện trong kết quả nghiên cứu tại thời điểm sau can thiệp ở nhóm NCMT có kiến thức đầy đủ và toàn diện về phòng, chống HIV tăng hơn so với thời điểm trước can thiệp, tăng từ 49,2% lên 66,1%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05 và CSHQ = 34,3%. Tuy nhiên


kiến thức riêng lẻ có ảnh hưởng tích cực đến phòng lây nhiễm HIV có sự dao động: Trước khi can thiệp, có tỷ lệ cho từng kiến thức riêng lẻ dao động (từ 65,8% đến 87,6%); Sau can thiệp đã tăng trên 70% trở lên, tỷ lệ dao động (từ 78,4% đến 92,7%) và CSHQ dao động từ 9,1% đến 19,1%. Đặc biệt kiến thức về tiêm chích bằng BKT sạch đã tăng (từ 77,9% trước can thiệp lên 85,0% sau can thiệp). Việc nâng cao các kiến thức đầy đủ và toàn diện là cơ sở khoa học quan trọng để nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao (NCMT) tự giác và chủ động thực hiện các hành vi an toàn trong phòng chống HIV/AIDS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Bên cạnh kiến thức hiểu biết đầy đủ và toàn diện về tác nhân, đường lây và cách phòng, chống HIV được nâng cao sau khi can thiệp. Một tín hiệu khả quan được đối tượng nghiên cứu phản hồi đó là thái độ tích cực đối với người nhiễm HIV. Một rào cản về sự phân biệt, đối xử, xa lánh của cộng đồng được dần dần thu hẹp và chính họ chủ động phá vỡ sự e ngại và xấu hổ của mình. Điều này đã giúp cho những người luôn mặc cảm có lòng tin hơn vào cuộc sống, sự hòa nhập với cộng đồng tốt hơn và chính họ cùng cộng đồng tham gia tích cực trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch HIV/AIDS. Hiệu quả được thể hiện qua các chỉ số trong nghiên cứu này là tại thời điểm sau khi can thiệp tỷ lệ ở nhóm nghiện chích ma túy có thái độ tích cực, đầy đủ về HIV tăng hơn so với thời điểm trước can thiệp (tăng từ 51,3% lên 60,8%), có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05 và chỉ số hiệu quả (CSHQ = 18,5%). Tuy nhiên từng thái độ riêng lẻ có sự dao động: Trước can thiệp tỷ lệ dao động trong khoảng (từ 54,8% đến 90%); Sau khi can thiệp có tỷ lệ dao động trong khoảng (từ 66,1% đến 97%). Chỉ số hiệu quả dao động từ 7,8% đến 24,3% cho từng thái độ tích cực đối với người nhiễm HIV.

Hiệu quả của can thiệp cộng đồng tại thành phố Buôn Ma Thuột và huyện EaHleo, huyện Krong Pắc, tỉnh Đắk Lắk đối với nhóm đối tượng NCMT cũng thể hiện qua sự thay đổi về hành vi TCMT, kết quả nghiên cứu cho thấy tại thời điểm sau khi can thiệp, tỷ lệ ở nhóm nghiện chích ma túy có những hành vi TCMT, có thể làm giảm sự lây nhiễm HIV so với thời điểm trước khi can thiệp như: Nhóm dưới 20 bắt đầu TCMT giảm từ 42% xuống

Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB + và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk - 15


34%, chỉ số hiệu quả là 19,0%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05; Hiệu quả về hành vi dùng chung BKT: Tỷ lệ đối tượng NCMT dùng chung BKT giảm từ 56,4% xuống còn 46,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, CSHQ = 17,0%. Qua phỏng vấn trực tiếp với đối nghiện chích ma túy, họ thường đưa ra nhiều lý do khác nhau để thực hiện hành vi dùng chung BKT như: Thiếu tiền mua thuốc, do ý thích cá nhân, đồng cảm hoặc tin tưởng vào nhau, đặc biệt là vợ hoặc người yêu. Một kết quả nghiên cứu ở Bắc Giang sau 3 năm triển khai can thiệp cộng đồng cũng ghi nhận hành vi dùng chung BKT trong lần tiêm chích gần nhất đã giảm từ 36,46% xuống còn 12,81% so với trước can thiệp. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,01, CSHQ = 64,86%. Trong số những người dùng chung BKT vẫn còn 5% không làm sạch BKT trước khi sử dụng và 7,81% người NCMT có làm sạch BKT. Lý do người NCMT không làm sạch BKT trước khi tiêm chích chủ yếu do không có sẵn nước, cồn hay thuốc sát trùng. Trong số 41 người NCMT có sử dụng chung BKT, có 58,54% người NCMT thường xuyên dùng chung BKT với bạn chích; 21,95% người thường xuyên dùng chung với người bán ma túy, 2,44% người thường xuyên tiêm chích chung với vợ hay người yêu [32]. So sánh giữa CSHQ ở nghiên cứu này với CSHQ nghiên cứu tại Bắc Giang, CSHQ ở nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn 3,8 lần (64,86/17,0) [32]. Đối với tần xuất tiêm chích ở nghiên cứu này có kết quả như sau: Nhóm tiêm chích 1 lần/ngày sau khi can thiệp, chiếm tỷ lệ 84,7%, so với trước can thiệp là 56,1%, có chiều hướng tăng hơn, chỉ số hiệu quả là 59,9%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001; Nhóm tiêm chích 2-3 lần/ngày, tỷ lệ có chiều hướng giảm, trước khi can thiệp là 23,8%; Sau khi can thiệp là 14,6%; Chỉ số hiệu quả 38,7%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001; Nhóm tiêm chích ≥ 4 lần/ngày, có chiều hướng giảm rõ rệt, tỷ lệ sau khi can thiệp là 0,7% so với tỷ lệ trước khi can thiệp là 20,1%; CSHQ là 96,5%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001.

Hiệu quả của sự can thiệp cộng đồng còn được thể hiện qua sự thay đổi về hành vi QHTD. Việc QHTD không an toàn cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng, góp phần làm gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV. Bên cạnh đó


là sự đan xen giữa các hành vi nguy cơ cao với nhau (TCMT và QHTD) trên cùng một đối tượng NCMT, có thể làm tăng thêm sự trầm trọng của đại dịch này. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tác động của các can thiệp cộng đồng đã làm thay đổi đáng kể về hành vi QHTD tại thời điểm sau khi can thiệp. Tuổi cũng là một đặc trưng quan trọng đối với hành vi QHTD có thể tác động đến nguy cơ lây nhiễm HIV tăng hay giảm. Tuổi lần đầu QHTD phản ánh khả năng trì hoãn hoạt động tình dục của nhóm NCMT, đã có nhiều bằng chứng chỉ ra rằng tuổi QHTD lần đầu càng muộn (≥ 20 tuổi) thì khả năng nhiễm HIV trong lần QHTD đó càng giảm. Do vậy tuổi QHTD là một trong các yếu tố cần theo dõi và đánh giá sự hiện nhiễm HIV theo nhóm tuổi. Kết quả trong nghiên cứu này được đánh giá cao sau khi can thiệp cộng đồng và thể hiện như sau: Nhóm dưới 20 tuổi đã từng QHTD giảm từ 74,8% trước khi can thiệp xuống 65,4% sau can thiệp; Chỉ số hiệu quả là 12,6%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05. Hành vi sử dụng BCS khi QHTD an toàn, số lượng bạn tình ít hoặc chung thủy và quan hệ tình dục đồng giới nam (MSM) là môt trong những yếu tố tích cực tác động có thể làm giảm được nguy cơ lây nhiễm HIV. Do vậy, sử dụng BCS là một trong những biện pháp ưu tiên triển khai cộng đồng (chương trình BCS) nhằm hạn chế lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt trong nhóm đối tượng NCMT. Sử dụng BCS đúng đối tượng, có hiệu quả sẽ góp phần không nhỏ trong chiến lược Quốc gia hạn chế đại dịch HIV/AIDS. Trong nghiên cứu này, thể hiện kết quả như sau: Nhóm sử dụng BCS thường xuyên khi QHTD tăng từ 20,8% trước can thiệp lên 34,2% sau can thiệp; CSHQ là 64,4%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,01; Nhóm NCMT có một bạn tình chung thủy, sau can thiệp có tỷ lệ là 30,3% tăng hơn so với tỷ lệ trước can thiệp là 21,1%; Chỉ số hiệu quả là 43,6% có ý nghĩa thống kê, với p < 0,01. Nhóm NCMT quan hệ đồng giới nam, trước can thiệp có tỷ lệ 1,1% đã giảm xuống sau can thiệp là 0,3%; CSHQ là 72,7%, có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001. Từ kết quả ở nghiên cứu này, có thể tìm hiểu và so sánh với kết quả nghiên cứu can thiệp tiếp cận cộng đồng trên nhóm người NCMT tại TP Bắc Giang trong 3 năm (2007 – 2010)


để đối chứng, giúp cho việc làm sáng tỏ hơn nữa hiệu quả can thiệp. Đối với kết quả nghiên cứu ở TP. Bắc Giang ghi nhận: Tỷ lệ sử dụng BCS là 81,08% trong số những người NCMT đã từng có QHTD. Hầu hết người NCMT được hỏi cho rằng khả năng tiếp cận với BCS của họ là khá tốt với tỷ lệ 80,36%, họ có thể lấy được BCS bất cứ khi nào cần sử dụng là 84,80%. Như vậy, ở nghiên cứu này tỷ lệ đối tượng thường xuyên sử dụng BCS thấp hơn 2,4 lần (81,08/34,2) so với kết quả nghiên cứu ở Bắc Giang [32].

Qua phân tích và diễn giải các thông tin thu thập được ở nhiều khía cạnh khoa học, đồng thời từ kết quả của nghiên cứu này so sánh với kết quả của một số nghiên cứu khác ở các địa bàn và thời điểm khác nhau đã làm sáng tỏ và khẳng định việc can thiệp cộng đồng, đã thể hiện bởi các chỉ số hiệu quả tích cực được tăng lên. Qua đó đã cho thấy một bức tranh tổng thể về tình trạng bệnh tật và hiệu quả can thiệp cộng đồng. Kết quả này cũng phản ánh một cách khách quan về thực trạng hiện nhiễm HIV (+) và tình trạng mắc bệnh lao có AFB (+), tình trạng đồng nhiễm HIV/lao trên nhóm đối tượng nghiện chích ma túy. Không những vậy, nghiên cứu còn thể hiện mức độ về kiến thức hiểu biết, thái độ và hành vi nguy cơ lây truyền HIV/AIDS. Với dữ liệu mang tính khoa học làm cơ sở triển khai công tác phòng, chống HIV/AIDS và các bệnh nhiễm trùng bội nhiễm trên nhóm đối tượng nghiện chích ma túy nói chung và người nhiễm HIV nói riêng, trong đó có bệnh lao. Tuy nhiên trong quá trình triển khai nghiên cứu, không thể không có những yếu tố có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả can thiệp cộng đồng trên nhóm nghiện chích ma túy.

Những mặt hạn chế của mô hình can thiệp cộng đồng tại tỉnh Đắk Lắk

Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau tác động có thể hạn chế của mô hình can thiệp cộng đồng ở địa điểm chọn nghiên cứu, làm ảnh hưởng đến hiệu quả. Trước hết là do nguyên nhân khách quan như đối tượng có thể sử dụng các loại ma túy theo đường hút, hít hoặc đường uống (thuốc lắc), trẻ hóa. Giai đoạn đầu của nghiện ma túy, thường kinh tế còn có khả năng chi trả, việc sử dụng ở những dạng ma túy đắt tiền (theo đường hít Heroin). Đặc biệt


đối tượng có sự di biến động rất phức tạp, mỗi khi có sự gia tăng tác động của các ngành chức năng liên quan đến pháp luật như truy quét tệ nạn xã hội, chống buôn bán ma túy ở từng địa phương khác nhau, dẫn đến đối tượng tự ẩn náu hoặc di chuyển để tránh sự để ý hoặc có sự gia tăng các dịch vụ tươi mát và các điểm nóng. Những điều kiện có thể làm giảm hoặc tăng đối tượng NCMT ở các thời điểm khác nhau hoặc đan xen nhiều đối tượng với các hành vi khác nhau như TCMT, gái mại dâm. Những yếu tố này, có thể tác động đến các mô hình can thiệp, làm cho liều lượng can thiệp không đủ hoặc yếu và có thể đối tượng không tiếp xúc trực tiếp đước các dịch vụ dẫn đến hiệu quả có thể bị sút giảm. Đây là một trong những yếu tố nhiễu, khi phiên giải kết quả có thể bị ảnh hưởng. Hơn nữa những đối tượng NCMT cần để hướng tới can thiệp cộng đồng lại không biết cụ thể, đầy đủ về quần thể nhóm này, mà chỉ dựa trên số liệu không phải khoa học (hồ sơ quản lý các trường hợp nghiện chích ma túy của Sở lao động – thương binh, xã hội của tỉnh Đắk Lắk) để ước lượng quần thể đích.

Bên cạnh nguyên nhân khách quan còn có các nguyên nhân chủ quan: Can thiệp cộng đồng là những biện pháp chủ yếu dựa trên sự tham gia tích cực, chủ động của toàn bộ cộng đồng và những dịch vụ y tế, dịch vụ xã hội có sẵn, sự quan tâm hưởng ứng của các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể xã hội. Can thiệp cộng đồng trên nhóm đối tượng nghiện chích ma túy là một vấn đề hết sức nhậy cảm, ở một địa phương mà cộng đồng dân cư lại đan xen nhiều dân tộc khác nhau và có những phong tục, tập quán, ngôn ngữ khác nhau. Việc tiếp xúc được với đối tượng NCMT không phải ai cũng có thể làm được. Nhìn chung các yếu tố xã hội, chủng tộc, điều kiện kinh tế là những khó khăn. Hơn nữa, trong thời gian triển khai can thiệp, tỉnh Đắk Lắk nói chung và địa điểm chọn nghiên cứu nói riêng, đã có những thời điểm nhậy cảm gặp phải như: về trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc phòng, tất yếu chính quyền và cơ quan chức năng phải vào cuộc, đã ít nhiều tác động đến sự di biến động của nhóm NCMT. Các hoạt động can thiệp phòng, chống HIV/AIDS và bệnh lao trên địa điểm nghiên cứu chủ yếu là các hoạt động truyền thông thay đổi


hành vi, mặc dù các hoạt động đã kết hợp nhiều hình thức, thông qua gián tiếp bằng truyền hình, truyền thanh, phát thanh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hình thức mít tinh cổ động nhân tháng hành động thế giới phòng, chống HIV/AIDS, đồng thời có những thông điệp truyền thông về phòng, chống HIV và bệnh lao trên những Pano, Áp phích. Bên cạnh đó, việc kết hợp phân phát tờ rơi, sách báo có nhiều nội dung phong phú nói về HIV và bệnh lao đến đối tượng đích dựa trên mạng lưới cộng tác viên, đồng đẳng viên, các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyền về HIV (VCT) và dịch vụ chuyển tiếp từ HIV sang sàng lọc bệnh lao và ngược lại từ lao sang HIV, dịch vụ điều trị ARV (OPC) và điều trị bệnh lao tại tuyến xã/phường, câu lạc bộ người nhiễm. Tuy nhiên mạng lưới nêu trên còn quá mỏng, số lượng ít ở một địa phương rộng về diện tích tự nhiên, nhóm dân cư không tập trung, cùng với di biến động dân cư thường diễn ra. Việc tiếp cận đối tượng NCMT sống ở ngoài cộng đồng dân cư, hiệu quả nhất vẫn là nhóm đồng đẳng viên ma túy và lấy nhóm này là hạt nhân, làm cầu nối với các mô hình can thiệp. Nhưng thực tế nhóm này số lượng tự nguyện tham gia không nhiều, còn ít so với diện tích bao phủ, trình độ thấp, sức khỏe không đảm bảo, hơn nữa thường thay đổi về nhân sự do phạm lỗi liên quan đến pháp luật. Việc trao đổi, phân phát BKT cho đối tượng đích, cấp phát BCS cho đối tượng có QHTD trong nhóm NCMT, các hoạt động này đã được triển khai , đội ngũ đồng đẳng viên ma túy được hình thành, được trang bị kiến thức về HIV và các bệnh nhiễm trùng cơ hội, trong đó có bệnh lao và đã trải nghiệm trong hoạt động. Tuy nhiên hoạt động can thiệp lại phụ thuộc rất nhiều vào nhóm đồng đẳng, họ rất thất thường về sự nhiệt tình, sức khỏe, đặc biệt là kinh tế. Do vậy thiếu tính chủ động, rất khó kiểm soát và đánh giá. Từ số thành viên không nhiều lại thường bị thay đổi do phạm tội có liên quan đến pháp luật …. Môi trường xã hội, nhiều dân tộc đan xen, trong đó có nhiều nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất về nhiễm HIV và bệnh lao. Một tác động không nhỏ khác là bất đồng ngôn ngữ. Do vậy rất khó xây dựng một mô hình can thiệp cố định ở vùng sâu, vùng xa. Để đáp ứng được nhu cầu cần

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 19/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí