Một Số Yếu Tố Liên Quan Đến Tình Trạng Đồng Nhiễm Hiv/lao Trên


Thái độ phản hồi tích cực đối với người nhiễm HIV là một dấu hiệu tốt, bớt đi sự kỳ thị phân biệt, đối xử với người nhiễm HIV/AIDS hoặc nhóm có hành vi nguy cơ cao, trong đó có nhóm đối tượng nghiện chích ma túy. Bởi vì những điều kỳ thị, phân biệt đối sử thiếu bình đẳng là một gánh nặng tâm lý, cộng hưởng với bệnh tật lại thêm gánh nặng hơn nữa đến sức khỏe con người. Sự kỳ thị làm những người khác trong xã hội coi người nghiện chích ma túy, người nhiễm HIV/AIDS đáng bị cách ly, khó tiếp cận. Chừng nào cơ sở tâm lý - xã hội của con người còn phức tạp, người này thờ ơ với người khác, hậu quả là người nhiễm HIV/AIDS bị cách ly, bị xã hội ruồng bỏ và dẫn tới có thể hợp lý hóa sự xa lánh một số người, từ chối bỏ trách nhiệm chăm sóc người bị cách ly. Đây là vấn đề lớn, nằm trong chiến lược phòng, chống HIV/AIDS là chống kỳ thị, phân biệt đối sử với người nhiễm. Tuy nhiên, không dễ loại bỏ ngay được vì nó đã tồn đọng, ám ảnh trong cộng đồng, trong từng cá nhân con người. Để đánh giá mức kỳ thị bằng cách thăm dò nhóm đối tượng để thu nhận được những thông tin phản hồi từ cá nhân của họ về cách cư xử với người nhiễm HIV qua các câu hỏi. Kết quả trong nghiên cứu này được thể hiện thái độ tích cực như sau: Vào thời điển trước triển khai các biện pháp can thiệp, đối tượng có thái độ tích cực, toàn diện đối với người nhiễm HIV là 51,3%. Trong 4 ý kiến phản hồi về thái độ tích cực, trong đó chăm sóc người thân bị AIDS là 90%; Mua rau của người nhiễm HIV là 81%; Không cần giữ kín người thân bị nhiễm HIV là 66,4% và chấp nhận thầy giáo hoặc cô giáo bị nhiễm HIV vẫn được giảng dạy là 54,8%.

Những nghiên cứu về hành vi nguy cơ gây lây nhiễm HIV tại Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra bằng chứng về mối liên quan giữa hành vi TCMT, QHTD không an toàn và HIV/AIDS [55], [78]. Theo một báo cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2012 về thực trạng nhiễm HIV trong đối tượng vị thành niên và người trưởng thành trong giai đoạn 2007-2010, cho biết QHTD đồng giới và TCMT là hai đường lây truyền HIV phổ biến nhất tại Mỹ trong giai đoạn này. Theo báo cáo trong năm 2010, 80% trường hợp nhiễm HIV được phát hiện là nam, trong đó 78%


có QHTD đồng giới, 6% TCMT, 4% vừa QHTD đồng giới vừa TCMT [42]. Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy TCMT, QHTD không an toàn là những hành vi có thể tác động làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV. Về hành vi TCMT trước can thiệp được thể hiện bằng các yếu tố sau: Tuổi bắt đầu tiêm chích ma túy, dưới 20 tuổi chiếm một tỷ lệ đáng kể (42,0%). Như vậy, tuổi đời tiêm chích ma túy càng sớm sẽ dẫn đến hệ quả khôn lường và tương ứng với tỷ lệ thuận cho cơ hội phơi nhiễm với các nguy cơ cao càng tăng. Về sử dụng chung bơm kim tiêm, kết quả cho thấy trên 50% đối tượng nghiện chích ma túy đã và đang thể hiện hành vi này, đây là một trong những đường lây cơ bản và cao nhất trong 3 đường lầy truyền HIV. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thành Đông và CS ghi nhận gần 75% người NCMT ở tỉnh Quảng Nam đã từng dùng chung BKT và 33,1% có dùng chung BKT trong 6 tháng qua [16]. So sánh với kết quả này, cho thấy nhóm NCMT tại 3 địa điểm được chọn triển khai nghiên cứu có tỷ lệ sử dụng chung BKT cao hơn 1,7 lần (56,4/33,1). Điểm quan trọng khác cũng cần lưu ý về tần xuất tiêm chích, số lần tiêm chích ma túy trong một ngày càng nhiều, điều đó có nghĩa nguy cơ phơi nhiễm với tác nhân càng lớn. Kết quả trong nghiên cứu này thể hiện cả ở ba mức độ: Tần xuất tiêm chích ma túy ≤ 1 lần/ngày, chiếm tỷ lệ trên 50%; từ 2 – 3 lần/ngày và ≥ 4 lần/ngày tương ứng với các tỷ lệ 23,8% và 20,1%. Loại ma túy mà nhóm đối tượng thường sử dụng, nghiên cứu cho thấy hầu như (gần 90%) đối tượng sử dụng chất gây nghiện là Heroin, loại ma túy khác là 14,4%.

Về hành vi quan hệ tình dục trong nhóm đối tượng nghiện chích ma túy cần tác động như thế nào để cho nhóm đối tượng nguy cơ cao vẫn được đáp ứng mà vẫn đảm bảo an toàn, phòng tránh một cách tốt nhất về lây truyền HIV nói riêng và các bệnh lây truyền qua đường tình dục nói chung. Sử dụng BCS khi QHTD của nhóm nghiện chích ma túy là một trong những hành vi được mong đợi có tính tích cực nhất. Một nghiên cứu tại thành phố Thượng Hải, Trung Quốc của Min Zhao vào năm 2006 trên đối tượng TCMT cho kết quả có đến 77% đối tượng không thường xuyên sử dụng bao cao su khi


QHTD, 25,5% có nhiều hơn một bạn tình. 48,2% có bạn tình cũng là người TCMT và 75,9% không biết bạn tình của mình có nhiễm HIV hay không [120]. Nghiên cứu 350 người NCMT ở tỉnh Quảng Nam, năm 2011 của Nguyễn Thành Đông và CS cho thấy 17,5% người NCMT chưa bao giờ sử dụng BCS [16]. Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy, QHTD ở tuổi đời sớm, dưới 20 tuổi chiếm tỷ lệ cao 74,8%. Không dùng BCS thường xuyên chiếm tỷ lệ rất cao là 79,2% và lớn hơn một bạn tình là 78,1%, quan hệ tình dục đồng giới chiếm một tỷ lệ đáng kể là 1%. Khi so sánh với kết quả của tác giả Trung Quốc (Min Zhao vào năm 2006) tương đối có sự tương đồng (79,2% /77%). Nhưng hơn một bạn tình, kết quả nghiên cứu này cao hơn 3,1 lần (78,9/25,5).

4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng đồng nhiễm HIV/lao trên

nhóm đối tượng nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Nhiễm HIV (+) là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nhiều vấn đề sức khỏe khác, tạo cơ hội làm gia tăng các bệnh nhiễm trùng, trong đó có bệnh lao. Trong một số nghiên cứu ở các nước châu Âu, châu Phi và Thái Lan cũng cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa HIV và mắc bệnh lao [115]. Mối liên quan mật thiết này có thể xuất phát từ sự suy giảm miễn dịch của người nhiễm HIV, làm cho nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng cũng như mắc lao ở những đối tượng này ngày càng tăng cao [115]. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy vào thời điển trước khi can thiệp, người nhiễm HIV (+) là yếu tố có thể tác động làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh lao lên 22,84 lần, với p < 0,001, (5,1< OR <115,8). Kết quả phần nào cung cấp thêm bằng chứng về mối liên quan chặt chẽ giữa HIV và mắc bệnh lao. Các nghiên cứu về đồng nhiễm HIV/lao tại một số quốc gia trên thế giới đã đưa ra bằng chứng về mối liên quan giữa HIV/AIDS và bệnh lao, đó là những người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao hơn từ 20 - 37 lần so với những người không nhiễm HIV [67]. Nghiên cứu này cũng cho kết quả tương tự và nằm trong khoảng nêu trên (22,84 lần). Tuy nhiên đây là nghiên cứu cắt ngang nên không thể đưa ra được một kết luận nhân quả, nghĩa là người nhiễm HIV có nguy cơ mắc lao. Vì hai tình


Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB + và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk - 14

trạng bệnh lý được mô tả (nhiễm HIV hoặc mắc lao) không rõ một trong hai tình trạng bệnh lý này, tác nhân nào gây bệnh bị phơi nhiễm trước trên cùng một đối tượng. Kết quả này chỉ thể hiện giữa hai tình trạng bệnh lý có mối liên quan chặt chẽ với nhau.

Nghiên cứu về mối liên quan với đồng nhiễm HIV/lao còn hạn chế nhưng đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về yếu tố liên quan đến nhiễm HIV. Điều tra 350 người NCMT ở Quảng Nam năm 2011 ghi nhận các yếu tố liên quan đến nhiễm HIV là tuổi ≥ 25 tuổi, trình độ học vấn thấp (mù chữ/tiểu học), thu nhập thấp (< 2 triệu/tháng), số năm tiêm chích ≥ 1 năm, kiến thức cần thiết về HIV chưa đạt và không tiếp cận BKT sạch [16]. Nghiên cứu ở Thanh Hóa cho thấy yếu tố của người vợ lẫn yếu tố của người chồng ảnh hưởng đến việc sử dụng BCS thường xuyên cho người vợ. Kiến thức về HIV của những người vợ là yếu tố chính ảnh hưởng đến sử dụng bao cao su thường xuyên đối với người chồng. Những người vợ có kiến thức về HIV tốt đã sử dụng BCS gấp 33 lần so với những người vợ có kiến thức về HIV còn khiêm tốn. Yếu tố nhận thức nguy cơ nhiễm HIV và việc thương thuyết sử dụng BCS của hai đối tác sẽ tác động tích cực lên sử dụng BCS của người vợ. Sự chênh lệch tuổi giữa vợ và chồng càng lớn thì khả năng sử dụng BCS càng ít. Những người chồng NCMT có mối quan hệ ngoài hôn nhân cũng là tác nhân ảnh hưởng đến ít sử dụng BCS với vợ. Chương trình thông tin giáo dục truyền thông, tư vấn xét nghiệm tự nguyện, chương trình cung cấp bao cao su cần được đẩy mạnh cho những người vợ đang cùng sinh sống với người chồng đã và đang NCMT [4].

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa độ tuổi và đồng nhiễm HIV/lao, tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao ở nhóm 20-39 tuổi cao hơn so với các nhóm tuổi khác. Một nghiên cứu tại Nam Phi của Linda-Gail Bekker vào năm 2010 cũng cho kết quả tương tự, đó là tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao ở độ tuổi 15 - 44 cao hơn so với các độ tuổi khác [82]. Một nghiên cứu bệnh chứng của Mohammed Taha tại Ethiopia vào năm 2009 cũng cho kết quả tương tự, đó là những người độc thân có tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao cao hơn so với


những người kết hôn và cho biết mù chữ là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao và không có mối liên quan giữa tình trạng thất nghiệp và đồng nhiễm HIV/lao [120]. So sánh với nghiên cứu trên, trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận được có mối liên quan giữa trình độ học vấn với đồng nhiễm HIV/lao.

Qua phân tích yếu tố dân tộc thiểu số với đồng nhiễm HIV/lao, nhận thấy có sự kết hợp, nhưng không có ý nghĩa thống kê ( 2 = 1,71 với p > 0,05). Đây cũng có thể việc tiếp cận được đối tượng NCMT là người dân tộc thiểu số còn quá ít (dưới 10% trong tổng số mẫu nghiên cứu). Tham khảo kết quả của một nghiên cứu tại Hoa Kỳ vào năm 2010 của Timothy C. Rodwell cũng cho kết quả tương tự, đó là tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao trong các nhóm chủng tộc thiểu số cao hơn so với các nhóm chủng tộc đa số tại San Diego, California trong giai đoạn 1993-2007 [120]. Nghiên cứu ghi nhận kết quả không có mối liên quan giữa kiến thức về HIV với đồng nhiễm HIV/lao. Một nghiên cứu của Jonas Nilsson tại Tanzania vào năm 2012 có kết quả như sau: Các đối tượng đồng nhiễm HIV/lao có kiến thức tương đối tốt về HIV/AIDS, tuy nhiên đa số không biết vi rút HIV có thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ mang thai, trong quá trình chuyển dạ và cho con bú.

Kết quả của nghiên cứu này còn cho thấy có mối liên quan giữa việc sử dụng chung BKT với đồng nhiễm HIV/lao. Khi tìm hiểu kết quả của một nghiên cứu tổng hợp về thực trạng đồng nhiễm HIV/lao tại Châu Âu của

L. Pimpin vào năm 2011 cũng có kết quả tương tự, việc sử dụng chung BKT là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao [61]. Một nghiên cứu khác tại Nga của F.A. Drobniewski từ 2001-2002 trên

1.345 đối tượng tù nhân mắc bệnh lao đã cho kết quả tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao là 12,2% và 48,6% tù nhân từng nghiện ma túy, trong số này có đến 88,3% từng TCMT và 40,2% từng sử dụng chung BKT [109].

Nghiên cứu cho biết, kết quả không có mối liên quan giữa việc sử dụng bao cao su, số bạn tình, tình trạng bệnh lây truyền qua đường tình dục với đồng nhiễm HIV/lao. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Salim S.


Abdool Karim tại Nam Phi vào năm 2009, đó là có nhiều bạn tình là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao [55].

4.3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng cộng đồng đối với nhóm

nghiện chích ma túy

Đây là một trong những nghiên cứu can thiệp cộng đồng so sánh trước và sau khi can thiệp trên nhóm nghiện chích ma túy, không có nhóm chứng với hai tình trạng bệnh lý HIV/AIDS và bệnh lao. Lần đầu tiên nghiên cứu ở Đắk Lắk nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói chung. Tuy nhiên ở Việt Nam có rất nhiều nghiên cứu về lao trên người nhiễm HIV/AIDS và người đã bị bệnh lao nghiên cứu về HIV/AIDS, ít có nghiên cứu chuyên biệt trên nhóm nghiện chích ma túy. Nghiên cứu này dựa trên can thiệp cộng đồng bao gồm: Sự huy động các nguồn lực sẵn có của địa phương, tận dụng mạng lưới y tế cộng đồng, các dịch vụ chuyên biệt cho HIV/AIDS và bệnh lao, bên cạnh có sự hợp tác tích cực, hiệu quả của nhóm đồng đẳng viên, người có cùng cảnh ngộ, cùng lối sống và có môi trường sống tương tự nhau. Với sự tác động các can thiệp vào đối tượng NCMT, nhằm nâng cao nhận thức hiểu biết, thái độ tích cực của nhóm nghiện chích ma túy đối với HIV và bệnh lao. Từ đó thay đổi những hành vi và lối sống có lợi cho sức khỏe của chính bản thận họ cùng với những người có cùng cảnh ngộ, môi trường như họ (nhóm nghiện chích ma túy và người nhiễm HIV) nhóm đồng đẳng hành động một cách tự giác, phân phát BKT và BCS, kỳ vọng ngăn ngừa đường lây truyền HIV. Cách làm này có thể hạn chế nguồn lây lan, sẽ tác động làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV và bệnh lao trong nhóm đối tượng nghiện chích ma túy và cũng có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV và bệnh lao sang người thân trong gia đình của họ, cộng đồng nơi họ sinh sống.

Từ các chỉ số nghiên cứu trước khi can thiệp làm điểm mốc để so sánh với các chỉ số sau khi can thiệp về sự gia tăng hoặc giảm đi của các chỉ số theo thời gian như: Tỷ lệ hiện nhiễm HIV, bệnh lao có AFB (+), đồng nhiễm HIV/lao và kiến thức, thái độ, hành vi trên nhóm đối tượng NCMT. Tuy nhiên, việc so sánh này còn nhiều điểm hạn chế vì không có nhóm đối chứng


để nhận định một cách chặt chẽ hơn để thấy được có phải là tác động của các mô hình can thiệp hay không? từ đó có thể kết luận hiệu quả đó thật sự tác động của các can thiệp cộng động hay đó chỉ là xu thế thay đổi chung của tình trạng nhiễm HIV, bệnh lao và đồng nhiễm HIV/lao, cũng như sự thay đổi về kiến thức, thái độ, hành vi ở nhóm đối tượng NCMT. Nhưng thực tế, việc chọn được nhóm chứng đúng đối tượng là một khó khăn và không có khả thi cho nghiên cứu này, nếu cần thiết phải chọn sẽ xẩy ra tình huống: Không có đủ đối tượng NCMT trong tỉnh Đắk Lắk để làm nhóm chứng hoặc đứng về khía cạnh đạo đức nghiên cứu lại là rào cản, biết nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao về nhiễm HIV và bệnh lao mà không can thiệp thì lại không cho phép trong nghiên cứu.

Những thành công của mô hình can thiệp cộng đồng tại Đắk Lắk

Tác động của những can thiệp cộng đồng, bước đầu đã cho ta những thành công nhất định trong việc phòng, chống HIV/AIDS và mắc bệnh lao, đồng nhiễm HIV/lao ở đối tượng NCMT trên các địa điểm triển khai nghiên cứu tỉnh Đắk Lắk: Hiệu quả sau khi can thiệp được thể hiện bằng các tỷ lệ hiện nhiễm HIV và bệnh lao có AFB (+), đồng nhiễm HIV/lao trên nhóm đối tượng nghiện chích ma túy được đánh giá như sau: So sánh các chỉ số nghiên cứu (tỷ lệ) sau can thiệp với chỉ số trước can thiệp. Kết quả thể hiện tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở thời điểm trước và sau khi can thiệp có khác nhau, trước can thiệp là 12,8% và sau can thiệp là 8,6%. CSHQ sau 12 tháng can thiệp là 32,8%, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Dựa trên đặc điểm dịch tễ, quá trình nhiễm vi rút và diễn tiến bệnh cảnh đối với người nhiễm HIV được coi là “bệnh mãn tính kéo dài”. Như vậy, theo thời gian số người nhiễm HIV dần được tích lũy nhiều hơn và có thể tỷ lệ nhiễm sau can thiệp về mặt lý thuyết là cao hơn tỷ lệ trước can thiệp. Tuy nhiên kết quả ở nghiên cứu này cho thấy, tỷ lệ hiện nhiễm HIV có chiều hướng giảm, tại thời điểm sau 12 tháng can thiệp có tỷ lệ thấp hơn thời điểm trước can thiệp (12,8% (2011) trước can thiệp và 8,6% (2012) sau can thiệp). Với kết quả trên, thực tế có thể xẩy ra và cần nhìn nhận ở một số tình huống như sau: Sự biến động thường


xuyên của nhóm đối tượng nghiện chích ma túy, làm cho ít có sự trùng lặp (cùng đối tượng) qua hai lần điều tra nghiên cứu (Trước – sau) hoặc số đối tượng được khẳng định nhiễm HIV của lần điều tra nghiên cứu trước đó đã được thông báo, do vậy họ không tự nguyện tham gia lần điều tra nghiên cứu sau can thiệp, hoặc là những đối tượng nghiện chích đã có chuyển biến về kiến thức phòng, chống HIV/AIDS tốt và đã thay đổi hành vi của họ, giảm được nguy cơ lây nhiệm HIV hoặc đối tượng đã tử vong do AIDS. Tuy nhiên đây cũng chỉ nêu ra giải thuyết, dù có lý do nào đi chăng nữa, cũng khó có thể xác định rõ nguyên nhân tỷ lệ nhiễm sau cao hơn tỷ lệ nhiễm trước (tích lũy số nhiễm HIV đã được khẳng định). Khi so sánh với một kết quả nghiên cứu tại Hà Nội đã công bố, kết quả nghiên cứu này cũng có sự tương đồng về chiều hướng giảm tỷ lệ nhiễm HIV theo thời gian. Theo Nguyễn Tiến Hòa, trong thời gian ba năm (2008 -2010) triển khai nghiên cứu can thiệp trên nhóm NCMT, đã kết luận tỷ lệ hiện nhiễm HIV (+) cao trong nhóm NCMT là 43,0% (2008); 37,7% (2009) và 30,5% (2010) nhưng cũng có chiều hướng giảm theo từng năm, từ 43,0% xuống còn 30,5% [20], [29]. Báo cáo giám sát trọng điểm của tỉnh Gia Lai (khu vực Tây Nguyên) năm 2009, ghi nhận tỷ lệ hiện nhiễm HIV (+) trong nhóm NCMT là (33,3%). So sánh chiểu hướng nhiễm HIV theo thời gian với kết quả giám sát trọng điểm của tỉnh Gia Lai, nhận thấy: Kết quả của nghiên cứu này giảm từ 2,6 lần (33,3/12,8) so với trước khi can thiệp và 3,9 lần (33,3/8,6) so với sau khi can thiệp.

Kết quả nghiên cứu về tình trạng mắc bệnh lao có AFB (+) và đồng nhiễm HIV/lao nhận thấy: Tỷ lệ mắc bệnh lao có AFB (+) trong điều tra cắt ngang trước can thiệp là 3,7% còn sau khi can thiệp là 2,3% với CSHQ là 37,8%, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao có AFB (+) có kết quả: trước can thiệp thì tỷ lệ đồng nhiễm là 2,6% và sau can thiệp là 1,7%. Với CSHQ sau can thiệp là 9,0%, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Các chi số liên quan đến mắc bệnh lao có AFB (+) giảm theo thời gian sau 12 tháng được can thiệp, có thể do tác động đầy đủ của hóa dược điều trị bệnh lao (theo dõi và điều trị theo chương

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 19/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí