Kiến Thức, Thái Độ Và Hành Vi Nguy Cơ Lây Nhiễm Hiv Và Một Số Yếu 48205


368 đối tượng NCMT tại khu vực nông thôn miền núi tỉnh Bắc Giang cho kết quả tỷ lệ hiện nhiễm HIV là 9,51%, so với nghiên cứu này có tỷ lệ thấp hơn 1,3 lần (12,8/9,51) [22], [23]. Theo Trần Như Hải và cs, kết quả điều tra giám sát lồng ghép chỉ số hành vi và các chỉ số sinh học HIV (IBBS) ở nhóm nam nghiện chích ma túy, năm 2011 tại 4 tỉnh Tây Nguyên, cho tỷ lệ hiện nhiễm như sau: tỉnh Gia Lai (19,3%); Kon Tum (11,4%); Đắc Nông (8,4%), Đắk Lắk (6,4%) [25]. Như vậy, nghiên cứu này có kết quả trước khi can thiệp (12,8%) so với tỉnh Gia Lai tỷ lệ thấp hơn 1,5 lần (19,3/12,8), nhưng cao hơn tỉnh Kon Tum, Đắc Nông, đặc biệt cao hơn tỉnh Đắk Lắk 2 lần (12,8/6,4). Tỷ lệ nhiễm HIV ở nghiên cứu này cao hơn tỷ lệ nhiễm HIV trung bình (11,4%) của 4 tỉnh Tây Nguyên. Nhưng theo chiều hướng giảm dần xuống gần sát với tỷ lệ trung bình trong điều tra (IBBS) ở Tây Nguyên. Với những đặc điểm so sánh ở trên đã cho thấy, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nhóm NCMT luôn luôn hiện diện, nhưng có những tỷ lệ khác nhau ở mỗi lần điều tra và ở các mốc thời gian, địa điểm khác nhau. Với những bằng chứng và luận cứ khoa học nêu trên có thể dự báo, từ năm 2011 đến năm 2012, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm NCMT dao động trong khoảng từ 6,4% đến 19,3% ở các tỉnh Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng.

Giám sát phát hiện mắc lao ở nhóm đối tượng NCMT cũng như những trường hợp hiện nhiễm HIV nhằm quản lý, theo dõi và điều trị có kết quả, hạn chế lao tiến triển, phòng lây nhiễm ra cộng đồng là điều được quan tâm nhiều [76]. Ở Việt Nam cũng như ở tỉnh Đắk Lắk nghiên cứu về đồng nhiễm HIV/lao và mắc bệnh lao trên cùng nhóm đối tượng NCMT còn hạn chế và khiêm tốn. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đa phần tập trung vào nhóm đối tượng đã được khẳng định HIV (+) để xác định mắc bệnh lao hoặc trong giám sát trọng điểm đã chọn những người được khẳng định bệnh lao để làm đối tượng giám sát HIV. Do vậy nghiên cứu này ít có số liệu khoa học tương đồng ở các vùng miền, thời điểm khác nhau về bệnh lao trên nhóm NCMT để so sánh, đánh giá và làm cơ sở tham chiếu về mặt khoa học. Hơn nữa tình trạng bệnh lao trong nghiên cứu này được xác định bằng phương pháp nhuộm


soi 3 mẫu đờm trên cùng một đối tượng, lấy mẫu bệnh phẩm ở 3 thời điểm khác nhau (quy trình xét nghiệm của Bộ Y tế) tìm trực khuẩn kháng cồn, kháng toàn “Có trực khuẩn kháng cồn, kháng toan trong đờm khi nhuộm Ziehl-Neelsen, thường gọi là AFB (+)” giúp cho hướng chẩn đoán khẳng định là bệnh lao phổi. Để có kết luận chặt chẽ hơn, cần kết hợp với một số dấu chứng có liên quan tới bệnh lao của đối tượng. Ngoài phương pháp này, nghiên cứu không sử dụng các phương pháp khác như: (Không chụp XQ, không cấy đờm, không khám tổng quát….). Do vậy có những sai số nhất định, cũng có thể còn bỏ sót. Tuy nhiên, những đối tượng soi đờm tìm AFB (+) đã kèm theo một số biểu hiện về dấu chứng có thể liên quan đến bệnh lao qua phỏng vấn tình trạng sức khỏe của đối tượng NCMT, điều đó đã minh chứng hướng về bệnh lao. Nếu các đối tượng có xét nghiệm đờm khẳng định AFB (+) và kết hợp với một trong các dấu chứng liên quan đến bệnh lao, các đối tượng đó được khẳng định là “bệnh lao có AFB (+)”. Kết quả ghi nhận: Đã từng ho khạc kéo dài trên hai tuần là (15,1%). Đã từng sốt nhẹ về chiều và ra mồ hôi (19,1%). Đã từng sút cân, kém ăn, mệt mỏi (27,5%). Đã từng ho khạc ra máu (6,0%). Đã từng đau ngực (35,2%). Với cách tiếp cận và thu thập thông tin qua bộ câu hỏi phỏng vấn, các chỉ số này ghi nhận và chỉ coi đây là những dấu chứng cảnh báo và định hướng, hơn nữa thông tin thu được từ sự khai báo thụ động của đối tượng dẫn đến có thể có sai số nhớ lại, chưa có đủ điều kiện kết luận đó là bệnh lao. Để có bằng chứng đặc hiệu về bệnh lao, đó là xét nghiệm đờm tìm trực khuẩn kháng cồn, kháng toan [6], [24]. Trong nghiên cứu này, kết quả xét nghiệm có AFB (+), chiếm tỷ lệ 3,7%. Qua phân tích nhận thấy, tỷ lệ bệnh lao có AFB (+) không những hiện diện ở nhóm đối tượng nghiện chích ma túy đã nhiễm HIV (+) mà còn trên nhóm đối tượng nghiện chích ma túy không nhiễm HIV (HIV âm tính) là 1,2%. Đặc điểm này có thể nhận định bệnh lao có AFB (+) hiện diện ở tất cả các đối tượng, vừa có ở nhóm HIV dương tính, vừa có ở nhóm HIV âm tính.

Đồng nhiễm HIV/lao là tình trạng sức khỏe trên một đối tượng vừa bị tác động bởi hai tác nhân gây bệnh khá thường gặp, người nhiễm HIV suy


giảm miễn dịch có khả năng mắc lao cao gấp 20 lần so với người khỏe mạnh [62]. Nghiên cứu này cho kết quả tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao trước khi can thiệp là 2,7%, nhưng xét riêng những trường hợp nhiễm HIV (+) có tính tuyệt đối, trong nghiên cứu này mắc bệnh lao có AFB (+) là (8/38) chiếm tỷ lệ (21,1%). Qua kết quả của Phạm Duy Quang và cs nghiên cứu trên những bệnh nhân đã được khẳng định HIV (+) thu dung điều trị ARV sàng lọc bệnh lao, có tỷ lệ mắc lao là (28,1%) [30]. Vậy so sánh giữa tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao chung của nghiên cứu này với tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao của Phạm Duy Quang, thì thấp hơn 10,4 lần (28,1/2,7). Nếu so sánh tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao được tách biết đối tượng NCMT đã khẳng định HIV (+) có xét nghiệm AFB (+), thì nghiên cứu này thấp hơn 1,3 lần (28,1/21,1). Kết quả thông báo của WHO, tỷ lệ đồng nhiễm lao thể hoạt động trong nhóm người nhiễm HIV trên thế giới năm 2010 là 13% [115], [117]. So sánh tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao chung của nghiên cứu này với thông báo của WHO thì thấp hơn 4,8 lần (13/2,7). Nhưng so sánh giữa tỷ lệ xét nghiệm AFB (+) trên đối tượng HIV (+) ở nghiên cứu này với thông báo của WHO thì cao hơn 1,6 lần (21,1/13). Theo Đào Thị Minh An nghiên cứu tại tỉnh Sơn La cho kết quả: Ước tính tỷ lệ đồng nhiễm HIV và bệnh lao thể hoạt động trên người có HIV (+) là 13,4% [1]. Ngược lại, ước tính tỷ lệ đồng nhiễm HIV và bệnh lao thể hoạt động trên người có bệnh lao là 33,9% [1]. Tuy nhiên việc so sánh này chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ số đối tượng NCMT hiện nhiễm HIV (+) ở nghiên cứu này có số tuyệt đối quá nhỏ (mẫu số dưới 100), trước can thiệp có số hiện nhiễm HIV là 38 đối tượng. Theo Đặng Phi Hùng và cộng sự, nghiên cứu tại bệnh viện lao và bệnh phổi tỉnh Thái Bình về sàng lọc HIV trên BN lao, cho tỷ lệ BN đồng nhiễm HIV/lao là 12,3% và sàng lọc lao trên người nhiễm HIV có tỷ lệ đồng nhiễm là 49,8% [21]. Một điều tra 300 đối tượng NCMT trong Trung tâm Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Đắk Lắk, năm 2012, cho kết quả như sau: Tỷ lệ hiện nhiễm HIV (+) là 5,7%; Tỷ lệ bệnh lao có AFB (+) là 1,7% [17]. Tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao là 4/17 (23,5%). So với kết quả trong nghiên cứu này (nghiên cứu cộng đồng ở 2 huyện và 01 thành phố)


thì kết quả nghiên cứu ở cộng đồng có tỷ lệ nhiễm HIV cao hơn (12,8%) và tỷ lệ nhiễm lao chung trong nhóm NCMT cũng cao hơn, trong thời điểm trước can thiệp (3,7%). Như vậy, trong nhóm đối tượng NCMT trước can thiệp đều hiện diện bệnh lao có AFB (+) ở các đối tượng nhiễm HIV dương tính.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Phân bố HIV và bệnh lao có AFB (+) theo địa điểm nghiên cứu cũng là một trong những chỉ số quan trọng, nhằm xác định mức độ bệnh tật ở cồng đồng, mà đại diện cho nhóm NCMT, cũng như sự tồn tại, tiềm ẩn tác nhân gây bệnh có thể phát tán gây lây nhiễm sang đối tượng khác. Đặc biệt ngay trong nhóm đối tượng NCMT từ đó phát tán đến người thân, gia đình và cộng đồng mà họ đang sinh sống, đây là nguy cơ tiềm ẩn của tác nhân gây bênh. Trong nghiên cứu này cho thấy, thời điểm trước can thiệp tại 3 địa điểm được chọn nghiên cứu đều ghi nhận sự hiện diện đối tượng NCMT nhiễm HIV, tình trạng mắc bệnh lao có AFB (+) và tình trạng đồng nhiễm HIV/lao. Kết quả được phân bố như sau: Thành phố Buôn Ma Thuột, tỷ lệ hiện nhiễm HIV được xác định cao nhất, chiếm 16%, tình trạng bệnh lao có AFB (+) là 3,8%, tình trạng đồng nhiễm HIV/lao là 3,8%. Qua phân tích cho thấy, đặc điểm đáng lưu ý tại địa điểm TP. Buôn Ma Thuột hầu như 100% số đối tượng được khẳng định HIV (+) đều là những đối tượng xét nghiệm AFB (+) (5/5 đối tượng đồng nhiễm HIV/lao); Huyện EaHLeo xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV là 12%, tình trạng bệnh lao có AFB (+) là 3%, tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao là 2%; Huyện Krông Pắc xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV là (7,5%), tình trạng bệnh lao có AFB (+) là (4,5%), tỷ lệ đồng nhiễm HIV/lao (1%). Từ kết quả của nghiên cứu trên đã cho thấy bức tranh tổng thể về tình trạng hiện nhiễm HIV (+), bệnh lao có AFB (+) và đồng nhiễm HIV/lao luân hiện diện trên nhóm NCMT. Tuy nhiên vấn đề số có xét nghiệm AFB (+) và đồng nhiễm HIV/lao trên nhóm nghiện chích ma túy còn thấp, nhưng đây là số liệu khoa học khách quan, lấy đó làm mốc nhằm so sánh để làm sáng tỏ nhiều hơn về mắc bệnh lao chung trên nhóm nghiện chích ma túy.

Chỉ số về tuổi cũng là một đặc trưng, đặc biệt nhiễm HIV, mắc bệnh lao và đồng nhiễm HIV/lao. Đây là một yếu tố dịch tễ học quan trọng giúp cho

Thực trạng nhiễm HIV, bệnh lao AFB + và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở nhóm nghiện chích ma túy tại tỉnh Đắk Lắk - 13


việc truyền thông nhằm thay đổi hành vi, giảm thiểu nguy cơ và lên kế hoạch can thiệp. Theo kết quả của Trương Tấn Minh và cs nghiên cứu trên đối tượng nghiện chích ma túy tại Khánh Hòa, cho thấy số đối tượng nhiễm HIV tập trung vào nhóm từ 20 – 29 tuổi, chiếm tỷ lệ 67,9% [36]. Trong nghiên cứu này, HIV hiện diện ở mọi nhóm tuổi, trong đó tỷ lệ hiện nhiễm được phân bố: Nhóm tuổi từ 20 – 29 tuổi, chiếm tỷ lệ cao nhất vào thời điểm trước can thiệp là 14,2%. Tiếp theo là nhóm từ 30 – 39 tuổi có tỷ lệ là (18,8%). Nhóm dưới 20 tuổi có tỷ lệ đáng kể, chiếm (2,2%). Nhóm từ 40 – 49 tuổi có tỷ lệ là (4,8%). Kết quả này phù hợp với sự phân bố nhiễm HIV nói chung và trong nhóm NCMT nói riêng, thường tập trung cao ở nhóm tuổi lao động. Về nhiễm lao trong nhóm đối tượng NCMT ít có nghiên cứu mô tả về phân bố bệnh lao cho nhóm tuổi. Kết quả nghiên cứu này, ghi nhận về bệnh lao có AFB (+) trước can thiệp phân theo đội tuổi, tỷ lệ mắc bệnh lao có AFB (+) cao ở nhóm 20 – 29 tuổi, chiếm 4,9%, tiếp nhóm 40 – 49 tuổi là (9,5%); Nhóm 30 – 39 là (1,4%), dưới 20 tuổi không ghi nhận.

Đối với HIV đã có nhiều nghiên cứu trên các nhóm chủng tộc khác nhau. Theo Mar Cichoki và cộng sự, năm 2008 nghiên cứu ở Mỹ cho thấy ảnh hưởng của HIV/AIDS lên các nhóm chủng tộc và dân tộc thiểu số, kết quả của nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng cảnh báo cho người dân về HIV là sự nguy hiểm về TCMT đã dùng BKT nhiễm trùng, QHTD không sử dụng BCS và tầm quan trọng của xét nghiệm HIV [45], [48]. Bên cạnh đó, có nhiều ý kiến cho rằng, nhóm đồng bào thiểu số dễ bị tổn thương nhất một khi có những yếu tố bất lợi về sức khỏe tác động và xâm nhập vào các buôn làng, vùng sâu, vùng xa, nơi mà thường hạn chế của các dịch vụ y tế. Một trong nhiều yếu tố bất lợi đó, phải kể đến yếu tố dịch bệnh, trong đó có HIV và bệnh lao, khi đã hiện diện sẽ gây tác hại càng thêm trầm trọng. Đã có những nghiên cứu về tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nhiều dân tộc khác nhau, nhưng chưa có nhiều bằng chứng để nhìn nhận một cách khoa học, bức tranh đầy đủ hơn về tỷ lệ hiện nhiễm HIV và bệnh lao, đồng nhiễm HIV/lao trên đối tượng nghiện chích ma túy ở các nhóm dân tộc khác nhau. Theo tác giả Phan Thị


Thu Hương, Nguyễn Thanh Long và cộng sự, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy người dân tộc thiểu số ở tỉnh Thanh Hóa là 29,04%, trong đó tỷ lệ hiện nhiễm ở huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa (huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa) là 56,2% [23]. Trong nghiên cứu này, ghi nhận tỷ lệ hiện nhiễm HIV (+) ở cả 3 nhóm dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm đa phần, trước khi can thiệp, có tỷ lệ là 12,3%; Dân tộc Ê Đê là 1/3 (33,3%); Dân tộc khác 3/18 (16,7%). So sánh tỷ lệ nhiễm HIV người dân tộc ở Thanh Hóa, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy người dân tộc thấp hơn, có thể số đối tượng NCMT người dân tộc tiếp cận được còn quá ít (Mẫu số dưới 30 người). Đối với bệnh lao có AFB (+) ghi nhận một tỷ lệ đáng kể. Trước khi can thiệp ghi nhận hai nhóm dân tộc, trong đó dân tộc kinh là 3,2%; Dân tộc khác là 2/18 (11,1%). Nhìn chung, tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở dân tộc thiểu số ít hơn. Một nghiên cứu về tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở đồng bào dân tộc Khner và Hoa Nùng cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV là 0,12% [34].

Trình độ học vấn là một trong những điểm chú ý trong phân bố bệnh tật, điều đó giúp sự định hướng ưu tiên trong quá trình can thiệp, vấn đề chọn phương cách truyền thông, sử dụng các thông điệp phù hợp với từng trình độ. Trong nghiên cứu này, phân bố gặp ở ba trình độ học vấn, nhóm học vấn THCS có tỷ lệ là 12,4%; THPT trở lên là 9,8%; Mù chữ và tiểu học là 6/21 (28,6%). So sánh tỷ lệ nhiễm HIV ở trình độ học vấn với nghiên cứu ở tỉnh Ninh Bình 2009 có kết quả 54% ở nhóm THCS và 36% ở nhóm THPT [28]. Kết quả nghiên cứu điều tra trước can thiệp này có trình độ học vấn thấp hơn 4,4 lần (54/12,4) ở nhóm trình độ học vấn PTCS và 3,7 lần (36/9,8) ở nhóm học vấn THPT; Bệnh lao có AFB (+) ở nghiên cứu này hiện diện cả ba mức trình độ học vấn, THCS có tỷ lệ 3,2%; Mù chữ và tiểu học là 2/21 (9,5%); THPT trở lên là 3/92 (3,3%).

Đặc điểm về hôn nhân gia đình, cũng là một trong nhiều yếu tố có thể tác động làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm HIV, đồng thời có nhiều cơ hội nhiễm bệnh lao và đồng nhiễm HIV/lao. Kết quả nghiên cứu này ghi nhận trước can thiệp thì HIV (+) ghi nhận ở ba nhóm về tình trạng hôn nhân: Nhóm


có gia đình có tỷ lệ cao, chiếm 16,7%; Nhóm độc thân là 10,6% và nhóm ly thân là 1/14 (7,1%). Bệnh lao có AFB (+) ghi nhận ở hai nhóm về tình trạng hôn nhân: Nhóm độc thân có tỷ lệ là 4,1% và nhóm có gia đình có tỷ lệ là 3,5%. Như vậy dù có hôn nhân hay không có hôn nhân, HIV và bệnh lao cũng có thể hiện diện ở đối tượng nghiện chích ma túy.

Tình trạng sống trong nghiên cứu này được thể hiểu ở hai bối cảnh là có sống cùng với gia đình và không sống với gia đình (sống lang thang), nương tựa ở ngoài xã hội. Với đặc điểm này của đối tượng nghiện chích ma túy là thường gặp và có những liên quan về hậu quả nhiễm HIV và bệnh lao. Kết quả ở nghiên cứu vào thời điểm trước can thiệp: HIV dương tính ghi nhận ở cả hai nhóm tình trạng sống, trong đó nhóm sống với gia đình có tỷ lệ cao, chiếm 16,7%; Nhóm sống ở ngoài là 7,7%; Bệnh lao có AFB (+) ghi nhận ở hai nhóm tình trạng sống, trong đó nhóm sống ở ngoài chiếm tỷ lệ 4,6%; Nhóm sống với gia đình là 3,0%;

Đặc điểm có việc làm hay thất nghiệp trong phân bố nhiễm HIV và mắc lao, đồng nhiễm HIV/lao cũng được thể hiện trong nghiên cứu. Thời điểm trước khi can thiệp: HIV dương tính ghi nhận ở nhóm thất nghiệp là 5/38 (13,2%); Nhóm có việc làm là 12,7%; Bệnh lao có AFB (+) ghi nhận ở nhóm thất nghiệp là (7,9%); Nhóm có việc làm là 3,1%;

4.2. Kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV và một số yếu

tố liên quan đến tình trạng đồng nhiễm HIV và lao

4.2.1. Kiến thức hiểu biết, thái độ và hành vi lây nhiễm HIV

Kiến thức hiểu biết về HIV/AIDS đóng một vai trò quan trong trong chiến lược phòng, chống sự lây nhiễm HIV/AIDS. Chính nhận thức rõ vai trò của nó, do vậy chương trình hành động về Thông tin – giáo dục – truyền thông được coi là biện pháp cơ bản hàng đầu, ví như một “vác xin phòng bệnh hữu hiệu” với kỳ vọng nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung và các nhóm nguy cơ khác nhau nói riêng, trong đó có nhóm NCMT. Từ kiến thức đúng đắn sẽ góp phần làm thay đổi các hành vi, thực hiện các hành vi an toàn. Trong nhiều năm qua, tỉnh Đắk Lắk nói chung đã triển khai một cách


thường xuyên, liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều các kênh khác như hội họp, mít tinh, tranh ảnh, áp phích … Tuy nhiên Đắk Lắk chưa có một nghiên cứu đánh giá hiệu quả của hoạt động này. Trong nghiên cứu này đánh giá trước can thiệp, trong nhóm NCMT cho thấy sự xen kẽ giữa hiểu biết đúng và nhận thức sai vẫn còn có tỷ lệ đáng kể. Theo tiêu chuẩn của UNGASS bao gồm: Việc nhận thức đúng, toàn diện về tác nhân gây bệnh, đúng các đương lây và cách phòng [39]. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ biết đúng về tác nhân là 85,2%, biết đúng về các đường lây là: Theo đường máu là 89,3%; Theo đường tình dục là 82,6%; Theo đường mẹ truyền sang con là 85,2%. Với kiến thức hiểu biết về HIV có tỷ lệ cao, trên 80%, nhưng kiến thức đầy đủ, toàn diện về tác nhân, đường lây chỉ có 71,1%; Không biết đúng, đầy đủ về đường lây vào thời điểm trước can thiệp là 28,9%. So với kết quả của một nghiên cứu trên nhóm NCMT ở Tiền Giang là 17,1% [24]. Như vậy tỷ lệ không biết đúng, đầy đủ về đường lây trong nghiên cứu này cao hơn 1,7 lần (28,9/17,1); Nghiên cứu về kiến thức cần thiết về HIV và thái độ tích cực đối với người nhiễm của dân tộc Khmer và Hoa Nùng cho thấy còn thấp, tương ứng với tỷ lệ (13,3% và 15,2%) [34]. Từ kiến thức có thể giúp cho cách phòng có hiệu quả. Tuy nhiên có nhiều ý kiến phản hồi trái chiều, với tỷ lệ 29,5% cho rằng chung thủy một vợ vẫn có thể không làm giảm lây nhiễm HIV, dùng BCS khi QHTD không làm giảm lây nhiễm HIV là 24,8%. Người trông khỏe mạnh không nhiễm HIV là 34,2%. Vẫn còn có tỷ lệ không nhỏ hiểu rằng muỗi đốt có thể lây truyền HIV vào lúc trước can thiệp là 29,2%. Dùng chung BKT không lây truyền HIV vào lúc trước can thiệp là 22,1%. Đây là những quan niệm sai lầm, mà dẫn đến hậu quả thực hiện những hành vi không an toàn làm gia tăng tỷ lệ nhiễm HIV, cũng là cơ hội nhiễm trùng bội nhiễm, trong đó có bệnh lao. Một nghiên cứu cũng trong các đối tượng nghiện chích ma túy tại Kabul, Afghanistan của Catherine S Todd vào năm 2007 cho kết quả có 46,1% có kiến thức tốt về HIV/AIDS, trong đó có 38,3% kể tên được 03 đường lây truyền HIV [52].

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/11/2022