Xác Định Nhân Thân Của Người Xin Giấy Phép Thành Lập Doanh Nghiệp


phải. Ngoài ra, công tác tuyên truyền còn bao gồm đưa tin trên các phương tiện thoogn tin đại chúng, tờ rơi

Tổ xử lý tờ khai thuế và tổng hợp: Bộ phận xử lý và tổng hợp nhận tờ khai và xác định tiêu thức, thời gian và tiến hành ghi sổ nhận, kiểm tra sơ bộ tờ khai để xác định tính chính xác của tờ khai về nội dung và hình thức. Nếu các tờ khai bị lỗi, bộ phận này thông báo lỗi tờ khai đến đối tượng nộp thuế để điều chỉnh tờ khai. Trên cơ sở thông tin thuế đã thu thập, tổ chuyên trách này tiến hành phân tích thông tin chuyển các bộ phận chức năng chịu trách nhiệm thanh tra, đôn đốc thu, cưỡng chế thuế.

Tổ đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế: thống kê các lỗi kê khai phát sinh, cả về số học cũng như hình thức và nội dung mà các doanh nghiệp thường phạm phải, để có kế hoạch tư vấn, tuyên truyền hỗ trợ hoặc thanh tra

Tổ thanh tra, kiểm tra: Bộ phận thanh tra thực hiện đầy đủ việc phân tích rủi ro trên cơ sở khai thác dữ liệu, từ đó lên kế hoạch thanh tra, kiểm tra cho kì sau.

Trên cơ sở báo cáo nợ đọng, tổ thu nợ và cưỡng chế thuế thực hiện phân tích nợ trên các chỉ tiêu (nợ phải thu hồi ngay, nợ thu hồi dần, nợ không có khả năng thu nợ, nợ tạm tính - nợ sai do cán bộ nhập sai, sai do chương trình máy tính, nợ sai do đơn vị nộp nhầm tiểu mục). Trên cơ sở phân loại nợ đó, tiến hành các biện pháp thu nợ một cách hiệu quả nhất đối với từng loại nợ.

Chương trình thí điểm về chế độ tự kê khai và nộp thuế đã được thực hiện thành công ở Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả tổng kết cho thấy, đối với các doanh nghiệp thí điểm thực hiện cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế thì các trường hợp gian lận giảm xuống rõ rệt. Quy trình làm việc ở các cơ quan thuế cũng trơn chu, chuyên nghiệp hơn.

Từ ngày 1/1/2005, Cục thuế Hà Nội cũng đã triển khai mô hình thí điểm thực hiện cơ chế tự khai và tự nộp thuế đối với 750 doanh nghiệp, với tất cả các sắc thuế. Sau 8 tháng thực hiện, Cục thuế Hà Nội đánh giá kết quả thí điểm là nhìn chung


việc thực hiện thí điểm đã bước đầu thu được kết quả khả quan. Các bộ phận được thành lập và hoạt động rất hiệu quả. ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp được nâng cao rõ rệt. Trong 6 tháng đầu năm 2005, thu ngân sách từ các đối tượng thực hiện thí điểm đạt 57% dự toán, tăng 68% so với cùng kỳ năm 2004. Cục thuế Hà Nội đã áp dụng thành công mô hình thí điểm nhờ tuân thủ nguyên tắc đồng thời sáng tạo những điểm mới phù hợp với đặc thù của địa bàn Hà Nội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Kết quả rõ nét nhất và chương trình thí điểm ở Hà Nội đạt được là ý thức tự giác của các doanh nghiệp được nâng cao rõ rệt. Trước khi thí điểm, số doanh nghiệp nộp tờ khai thuế GTGT đúng hạn là 90%, nhưng sau 6 tháng thí điểm, con số này đã tăng lên 99,7%.

Về phía doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đều đánh giá rằng cơ chế mới đã tạo ra sự thông thoáng và chủ động cho doanh nghiệp.

Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 11

Với sự thành công bước đầu trong công tác thí điểm, Chính phủ nên tiếp tục phát huy, áp dụng cơ chế này một cách rộng rãi hơn nhưng phải vững chắc từng bước chứ không ồ ạt, đại trà ngay lập tức sẽ dẫn đến tình trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng không đồng bộ.

Như vậy, với kết quả thí điểm rất khả quan thì trong một thời gian không lâu nữa, cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế GTGT nói riêng cũng như các loại thuế khác nói chung sẽ được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc và chắc chắn nó sẽ giải quyết được một phần hiện tượng gian lận, trốn thuế GTGT và các loại thuế khác.

III. Điều chỉnh một số nội dung Luật doanh nghiệp


Như đã nhận định và phân tích trong phần thực trạng, thì Luật doanh nghiệp hiện nay có rất nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp có thể lợi dụng. Vì vậy, việc điều chỉnh một số quy định của Luật doanh nghiệp là rất cần thiết để góp phần giải quyết hiện trạng gian lận, trốn thuế GTGT. Đặc biệt là giải quyết tình trạng các doanh nghiệp ma được thành lập tràn lan và nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Cụ thể, người viết đề xuất các ý kiến như sau:


1. Xác định nhân thân của người xin giấy phép thành lập doanh nghiệp

Thực trạng các “doanh nghiệp ma” được thành lập để buôn bán hóa đơn GTGT đã trở thành vấn nạn của xã hội. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là việc quy định lỏng lẻo đối với nhân thân người xin giấy phép thành lập doanh nghiệp. Do không quy định chặt chẽ về các chứng từ để chứng minh nhân thân của người xin giấy phép thành lập doanh nghiệp nên có hiện tượng các đối tượng gian lận thuê hoặc mượn danh nghĩa của những người hạn chế năng lực hành vi, mất năng lực hành vi, người đã chết để thành lập doanh nghiệp. Đến khi mọi việc được phát hiện thì pháp luật cũng không thể xử phạt những người này. Vậy để sàng lọc ngay từ đầu các đối tượng được phép thành lập doanh nghiệp, pháp luật nên quy định chặt chẽ về các chứng từ chứng minh nhân thân của người xin phép thành lập doanh nghiệp, bao gồm các chứng từ như: chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu, chứng nhận của chính quyền địa phương về nhân thân, sức khỏe, kinh tế. Chứng minh tài chính của người xin thành lập doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng để có thể đảm bảo sàng lọc đối tượng kỹ càng. Tránh tình trạng như hiện nay, các đối tượng xin phép thành lập doanh nghiệp không được xác minh nhân thân rõ ràng và không có chứng minh tài chính nên dẫn đến tình trạng tiêu cực lan tràn.

Trong tương lai, khi hệ thống công nghệ thông tin đã được áp dụng sâu rộng trong công tác quản lý thuế, ngành công an sẽ cung cấp cho Sở kế hoạch và đầu tư danh sách những đối tượng đã có tiền án, tiền sự, bị khởi tố trước pháp luật hoặc có những vi phạm khác; viện Kiểm sát sẽ cung cấp danh sách các đối tượng có quyết định truy tố; tòa án sẽ cung cấp các bản án, quyết định (bao gồm hình phạt, lĩnh vực cấm kinh doanh, doanh nghiệp bị phá sản); ngân hàng sẽ cung cấp thông tin về tình hình tài chính của các đối tượng xin phép thành lập doanh nghiệp cho các cơ quan có thẩm quyển quản lý. Từ đó, mà công tác sàng lọc đối tượng và phân loại đối tượng sẽ hiệu quả hơn.

Mặc dù chính sách thông thoáng trong cấp phép thành lập doanh nghiệp hiện nay rất thông thoáng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thành lập một


cách nhanh chóng, giúp nền kinh tế có những bước phát triển vượt bậc nhưng vẫn cần thắt chặt một cách hợp lý quy định đối với các đối tượng xin phép thành lập doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích cho cả các doanh nghiệp và Nhà nước.

2. Phải quy định điều kiện của người điều hành doanh nghiệp (tuân thủ pháp luật,trình độ chuyên môn nghiệp vụ,đạo đức nghề nghiệp)

Người điều hành doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm cao nhất trước pháp luật, do vậy cần đưa ra những tiêu chí nhất định đối với những người điều hành doanh nghiệp về các vấn đề như :

Tuân thủ pháp luật: có xác nhận của công an địa phương về số tiền án, tiền sự, vi phạm pháp luật.

Văn hóa, đạo đức: có nhận xét của tổ dân phố, địa phương về lối sống, đạo đức, đối nhân xử thế với hàng xóm, tham gia các hoạt động ở địa phương

Nhân thân: khai báo đầy đủ lý lịch của bản thân và những người thân trong gia đình, nghề nghiệp, chức vụ, nơi công tác, phẩm chất đạo đức, tuân thủ pháp luật

Phải xây dựng những định chế để giám sát việc tạo vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là số vốn đăng ký.

Đạo đức nghề nghiệp: có nhận xét của cơ quan đã từng làm việc, bằng cấp, chứng chỉ

Những điều kiện nêu trên có thể dùng để sàng lọc đối tượng được phép điều hành doanh nghiệp, cũng có thể chỉ để cung cấp thông tin cho các cơ quan thuế và cơ quan công an phân loại đối tượng để theo dõi và kiểm soát một cách hiệu quả. Đối với những đối tượng có khả năng phạm pháp cao như đã có tiền án, tiền sự, xác nhận đánh giá của địa phương về nhân cách không tốtsẽ đưa vào diện bị theo dõi chặt chẽ hơn. Với cách phân loại như vậy, pháp luật có thể sàng lọc được các đối tượng, tập trung được lực lượng vào những đối tượng có khả năng vi phạm cao, làm cho công tác kiểm tra thanh tra mang tính chiều sâu hơn, hiệu quả hơn.

3. Tăng cường vai trò quản lý của các chi cục thuế địa phương


Các cục thuế cấp tỉnh, thành phố nên chủ động phối hợp, nâng cao vai trò nhiệm vụ của các chi cục thuế địa phương trong việc giám sát, quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp trên địa bàn của mình vì chỉ có các chi cục thuế địa phương mới có thể nắm rõ nhất tình hình hoạt động kinh doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp trên địa bàn của mình. Các chi cục thuế ở các quận, huyện có chức năng cập nhật thông tin về hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh và các doanh nghiệp trên địa bàn và cung cấp cho các cục thuế cấp tỉnh, thành phố phục vụ cho việc quản lý, giám sát. Nhờ đó mà cục thuế cấp tỉnh, thành phố cũng nắm được thông tin thường xuyên về các doanh nghiệp, cá nhân ở tất cả các địa phương để có kế hoạch quản lý hiệu quả, chặt chẽ. Trong trường hợp chi cục thuế địa phương phát hiện các tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm sẽ báo cáo với các cục thuế cấp cao hơn để theo dõi, xử lý.‌

IV. Hiện đại hóa phương thức thanh toán


Vấn đề về phương tiện thanh toán hiện nay cũng là một trong những nguyên nhân làm cho gian lận thuế trầm trọng. Do điều kiện và trình độ phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, sử dụng tiền mặt trong thanh toán là rất phổ biến nên vai trò của tờ hóa đơn thanh toán là rất lớn. Hóa đơn là căn cứ duy nhất cho việc tính thuế. Do vậy, ngoài chức là một chứng tư kế toán, hóa đơn còn giữ vai trò quan trọng trong chi phối hoạt động của doanh nghiệp, hóa đơn được đi kèm và luân chuyển với các hàng hóa, dịch vụ. Đứng trên phương diện quản lý nhà nước, kiểm soát được hóa đơn là kiểm soát được tiền và hàng hóa lưu thông. Tuy nhiên là việc kiểm soát được hóa đơn là rất khó và dường như không thể vì số lượng hóa đơn được phát hành quá lớn, mà số lượng cán bộ thuế lại rất hạn chế.

Do vậy để có thể kiểm soát chặt chẽ mà lại không mất nhiều thời gian, công sức và nhân lực thì biện pháp có thể áp dụng là quy định các doanh nghiệp chuyển sang phương thức thanh toán qua tài khoản ngân hàng. Hiện nay các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới đều sử dụng phương thức thanh toán này. Qua hệ thống ngân hàng, các


cơ quan có thể kiểm soát được lượng tiền lưu thông trên thị trường và là phương pháp chống thất thu hiệu quả.

Kế hoạch có thể được thực hiện theo từng bước. Trước mắt, đối với các doanh nghiệp hạch toán theo phương pháp khấu trừ, ngoài hóa đơn bắt buộc phải có thì có thể quy định thêm rằng, muốn được khấu trừ hay hoàn thuế GTGT thì các giao dịch đều phải được thanh toán qua ngân hàng. Với biện pháp này, mọi đầu mối thanh toán sẽ quy về Ngân hàng. Hóa đơn thuế GTGT trở về với đúng bản chất của nó là các chứng từ kế toán và phản ánh các giao dịch có thật với số lượng thật.

V. Áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế


Như đã đề cập trong phần thực trạng, tình trạng cán bộ thuế các cấp thiếu trầm trọng về cả số lượng và chất lượng nên công tác kiểm tra thuế là rất bất cập vì không thể kiểm tra đối chiếu được tất cả các hóa đơn thuế GTGT của tất cả các doanh nghiệp. Do đó, số lượng doanh nghiệp được kiểm tra là rất thấp và chất lượng thanh tra, kiểm tra cũng không đảm bảo đặc biệt là đối với các giao dịch giữa các doanh nghiệp ở các địa bàn rất xa nhau. Công tác thanh tra kiểm tra sẽ rất tốn công sức và tiền bạc nên chắc chắn là không thể có hiệu quả cao.

Để nâng cao chất lượng của công tác quản lý thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng và tiến tới giảm thiểu và xóa bỏ hiện tượng gian lận, trốn thuế thì các cơ quan chức năng phải thực hiện quản lý bằng công nghệ thông tin một cách sâu rộng.

Người viết xin được mô tả quá trình áp dụng Công nghệ thông tin trong quản lý thuế như sau:

Mỗi doanh nghiệp được cấp một mã số thuế riêng. Hàng tháng, doanh nghiệp kê khai thuế theo mẫu bảng kê quy định gồm các nội dung như: Tên cơ sở kinh doanh, địa chỉ, thông tin các hóa đơn mua, bán (ký hiệu hóa đơn, số hóa đơn, ngày phát hành, tên người mua, người bán, mã số thuế của người mua, người bán, doanh số bán trên từng hóa đơn, thuế GTGT..). Đến mỗi kỳ kê khai và nộp thuế, các cơ sở


sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp sẽ nộp cho cơ quan thuế 1 bản kê khai thuế GTGT mà họ tự kê khai kèm theo là các hóa đơn điện tử sử dụng trong kỳ.

Trong cơ sở dữ liệu của các cơ quan thuế cũng đã chứa tất cả các thông tin liên quan cần thiết của các doanh nghiệp bao gồm: tên doanh nghiệp, mã số thuế, số giấy phép đăng ký kinh doanh, diện quản lý gồm các doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ (đèn đỏ) hoặc diện cần lưu ý (đèn vàng) và các doanh nghiệp luôn chấp hành tốt các quy định về thuế (đèn xanh) (là cách phân loại mà cơ quan quản lý quy định dựa trên những thông tin liên quan đến chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp, loại hình kinh doanh, tình trạng chấp hành pháp luật của doanh nghiệp).

Tất cả cơ sở dữ liệu của các chi cục thuế, cục thuế, tổng cục thuế đều liên kết với nhau thông qua mạng internet và được bảo mật chặt chẽ. Hệ thống cơ sở dữ liệu của các ngân hàng, cơ quan công an, viện kiểm sátcũng được liên kết để tăng sự phối hợp chặt chẽ giữa tất cả các cơ quan.

Khi doanh nghiệp kê khai và gửi bảng kê khai thuế kèm theo các hóa đơn điện tử thì cơ quan thuế có thể dễ dàng kiểm tra đối chiếu. Ví dụ như Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Bảo Hoàng nộp một hóa đơn điện tử số 5468. Cơ quan thuế muốn đối chiếu hóa đơn này chỉ cần dùng công cụ “tìm kiếm” với từ khóa là số hóa đơn “5468”. Hệ thống sẽ cho kết quả là hóa đơn mua vào, bán ra tương ứng của người mua, người bán (hóa đơn đầu ra của doanh nghiệp này là hóa đơn đầu vào của doanh nghiệp kia). Cơ quan thuế chỉ cần so sánh 2 hóa đơn có mã “5468” của 2 doanh nghiệp (1 hóa đơn là hóa đơn đầu ra của Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Bảo Hoàng và 1 hóa đơn là hóa đơn đầu vào của Công ty cổ phần may mặc Thiên Nga. Nếu hóa đơn của 2 doanh nghiệp này khác nhau, hoặc có hóa đơn đầu vào của doanh nghiệp này mà không có hóa đơn đầu ra của doanh nghiệp kia hoặc số tiền thanh toán trên 2 hóa đơn khác nhau thì sẽ phát hiện được ngay.

Nếu các doanh nghiệp thanh toán qua chuyển khoản ngân hàng thì cơ quan quản lý cũng biết được ngay là các doanh nghiệp có mua bán thực hay không, có thanh toán thực hay không và các thanh toán là giữa người nào với người nào. Với


hệ thống thông tin liên kết chặt chẽ thế này việc kiểm tra đối chiếu, quản lý các hóa đơn rất nhanh chóng và hiệu quả. Để đối chiếu được một hóa đơn, chỉ mất thời gian khoảng 1 phút. Như vậy, tất cả số hóa đơn của các doanh nghiệp đều được kiểm tra chính xác và nhanh chóng. Những trường hợp gian lận có thể được phát hiện ngay lập tức và chuyển sang cho cơ quan công an xử lý.

Ngay cả khi số hóa đơn không được kiểm tra hết thì số lượng hóa đơn được kiểm tra cũng chiếm tỷ lệ rất lớn. Hơn nữa, nếu kết hợp được với nguồn cơ sở dữ liệu của các cơ quan công an, viện kiểm sát, hệ thống quản lý sơ yếu lý lịch của tất cả mọi người dân thì việc sàng lọc được các đối tượng không được phép thành lập doanh nghiệp hoặc thuộc diện cần quản lý chặt chẽ cũng rất nhanh chóng và hiệu quả.

Mặc dù việc đầu tư và xây dựng cơ sở dữ liệu cho hệ thống quản lý thuế này là rất khó khăn và mất thời gian nhưng về lâu dài chắc chắn Chính phủ phải thực hiện dự án này thì mới có thể đẩy lùi được nạn gian lận, trốn thuế đang tràn lan hiện nay. Công tác bảo mật cho hệ thống này cũng rất quan trọng vì mọi thông tin liên quan đến doanh nghiệp đều được quản lý trong hệ thống này. Bất cứ thông tin nào bị rò rỉ cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, Chính phủ cần phải có kế hoạch chi tiết để từng bước thực hiện dự án quan trọng này góp phần vào công tác quản lý thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng.‌

VI. Kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, cơ quan chức năng trong các công tác quản lý thuế giá trị gia tăng

Việc quản lý thuế là một việc rất khó khăn và chỉ riêng ngành thuế thực hiện thì không thể mang lại hiệu quả mà cần có sự hợp tác giữa tất cả các bộ, ngành, cơ quan liên quan bao gồm các cục thuế; cục hải quan; sở kế hoạch và đầu tư; công an tỉnh, thành phố; viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh, thành phố; tòa án nhân dân, tỉnh, thành phố; ủy ban Nhân dân các quận, huyện; ngân hàng; các cơ quan tuyên truyền giáo dục và ý thức của cả xã hội.

1. Cục thuế tỉnh, thành phố

Ngày đăng: 20/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*