và mua bán đất, đá, cát, sỏi trôi nổi của các đối tượng không có tư cách pháp nhân để cấp hoá đơn GTGT nên thay vào đó sử dụng bảng kê thu mua. Đối với các loại bảng kê này, hàng hoá đầu vào cũng được khấu trừ theo một tỷ lệ nhất định. Điều này tạo ra một kẽ hở lớn cho các doanh nghiệp lợi dụng để thực hiện hành vi gian lận. Vì vậy, trong thời gian tới, nhà nước ta nên bãi bỏ quy định này, thay vào đó, chỉ khấu trừ và hoàn thuế đầu vào cho các hàng hoá, nguyên vật liệu có hoá đơn thuế GTGT. Hoặc đối với những trường hợp người bán không có hoá đơn GTGT thì tổ chức, cá nhân thu mua nông, lâm, thuỷ, hải sản chưa qua chế biến của người sản xuất không sử dụng hoá đơn thì người mua phải lập hoá đơn thu mua hàng để giao cho người bán hàng, chứ không sử dụng bảng kê hàng hoá. Biện pháp này giúp ngăn chặn tiêu cực do khống trừ khống thuế, lại có căn cứ để kiểm tra việc kê khai thuế và giá trị hàng mua vào của các doanh nghiệp.
4. Thu hẹp các trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất khẩu
Quy định hoàn thuế GTGT đầu vào cho các hàng hoá xuất khẩu cũng chứa đựng một kẽ hở lớn cho các doanh nghiệp gian lận. Thực tế, các vụ gian lận liên quan đến hoàn thuế GTGT khi xuất khống hàng hoá là rất nhiều và giá trị thuế được hoàn là rất lớn. Vì vậy, kẽ hở này cần phải được củng cố ngay bằng cách thu hẹp các trường hợp được hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu. Nhà nước chỉ nên hoàn thuế đầu vào cho những hàng hoá được đặc biệt ưu tiên xuất khẩu. Ngay cả khi được hưởng chế độ hoàn thuế thì nhà nước vẫn phải có những quy định chặt chẽ về bộ hồ sơ xuất khẩu nộp cho cơ quan thuế khi xét hoàn thuế để đảm bảo rằng việc xuất khẩu là có thực và đúng số lượng bao gồm: hợp đồng xuất khẩu, tờ khai hải quan xác nhận hàng hoá đã thực xuất, chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu, vận đơn, giấy chứng nhận xuất xứ của hàng hoá…và các chứng từ này đều phải được kiểm tra chặt chẽ để đảm bảo tính xác thực.
5. Kết hợp cơ chế hoàn trước kiểm sau và kiểm trước hoàn sau
Cơ chế hoàn thuế như hiện nay là rất lỏng lẻo, có nhiều kẽ hở cho các đối tượng gian lận có thể lợi dụng. Một lỗ hổng lớn nhất trong quy trình hoàn thuế là cơ chế
“hoàn trước, kiểm sau” nghĩa là nhà nước cứ hoàn thuế cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp nộp hồ sơ xin hoàn thuế mà không cần biết người ở khâu trước đã nộp thuế hay chưa. Theo cơ chế này, sau khi hoàn thuế, cơ quan thuế mới kiểm tra lại để xem doanh nghiệp nào có dấu hiệu vi phạm để thanh tra, kiểm tra. Nếu các doanh nghiệp vi phạm bị thanh tra thì mới có khả năng bị phát hiện, ngoài ra có nhiều doanh nghiệp vi phạm mà cơ quan thuế không phát hiện ra dấu hiệu khả nghi nào thì sẽ nằm ngoài “tầm ngắm” của các cơ quan thanh tra và tất nhiên là các doanh nghiệp này sẽ không bị truy thu thuế và không bị phạt. Khi đó, không những nhà nước không thu được thuế đầu ra mà còn phải khấu trừ hoặc hoàn thuế đầu vào cho các doanh nghiệp. Vì vậy, theo ý kiến người viết, cơ quan thuế các cấp địa phương là nơi nắm rõ tình hình của các doanh nghiệp nhất nên phân loại các doanh nghiệp để áp dụng cơ chế kiểm tra cho phù hợp, bao gồm: doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế (áp dụng cơ chế hoàn trước kiểm sau), doanh nghiệp đã từng vi phạm và có có dấu hiệu vi phạm (áp dụng cơ chế kiểm trước hoàn sau). Bộ máy quản lý thuế cũng cần được tổ chức lại, nên quy định rõ ràng trách nhiệm của cán bộ thuế trong việc xử lý hoàn thuế, tăng cường cán bộ có trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt làm công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế, tổ chức tập huấn thanh tra sau hoàn thuế.
6. Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh và các doanh nghiệp tự in hóa đơn
Qua thực trạng áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay, cho thấy số lượng doanh nghiệp thành lập ra chỉ để kinh doanh hoá đơn là rất lớn nên việc hạn chế bán hoá đơn là cần thiết để giảm bớt nguy cơ gian lận so với hiện nay. Nhà nước nên khuyến khích các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh đăng ký sử dụng hoá đơn tự in, uỷ quyền cho Cục thuế các tỉnh, thành phố duyệt mẫu hóa đơn tự in và đồng thời cơ quan thuế có quy định chặt chẽ về in và quản lý hoá đơn tự in bao gồm: hình thức của hoá đơn, nội dung cơ bản của hoá đơn, cách quản lý hoá đơn…
Có thể bạn quan tâm!
-
Bán Hàng Không Lập Hóa Đơn, Không Kê Khai Doanh Thu
-
Tổ Chức Quản Lý Việc Thực Thi Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng Thiếu Hợp Lý
-
Ý Thức Chấp Hành Pháp Luật Của Các Doanh Nghiệp Còn Kém
-
Xác Định Nhân Thân Của Người Xin Giấy Phép Thành Lập Doanh Nghiệp
-
Gs-Ts. Bùi Xuân Lưu, Ts.nguyễn Hữu Khải, Ths.nguyễn Xuân Nữ 2003 Giáo Trình Thuế Và Hệ Thống Thuế Ở Việt Nam, Nhà Xuất Bản Giáo Dục
-
Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 13
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Khi đã cho phép các doanh nghiệp tự in hoá đơn thì cũng cần mở rộng số lượng các nhà in được phép in hoá đơn cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Bãi bỏ việc chỉ
định địa chỉ in như hiện nay, thay bằng việc đưa ra danh sách các nhà in được phép in hoá đơn cho doanh nghiệp để họ tự chọn. Đồng thời quy định các nhà in phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ với cơ quan thuế về các loại đơn đã cho in trong kỳ kinh doanh. Quy định này nhằm đối soát với việc đăng ký hoá đơn sử dụng, ngăn ngừa việc in trùng giữa, sử dụng hoá đơn nhưng không đăng ký của các doanh nghiệp. Hơn nữa , quy định này cũng bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp vì tránh được tình trạng hoá đơn của doanh nghiệp bị in giả.
Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp sử dụng Ngân sách nhà nước, kiến nghị Bộ tài chính quy định khi quyết toán tài chính năm phải lập bảng kê hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ để cơ quan quản lý nhà nước có thể phối hợp với cơ quan thuế đối chiếu chéo, kiểm soát việc chi tiêu ngân sách của các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Hoá đơn do Bộ tài chính phát hành hiện nay cũng cần nâng cao chất lượng in để chống việc in giả hoá đơn để gian lận thuế GTGT. Để đảm bảo hơn về tính chân thực của hoá đơn, Bộ tài chính nên bổ sung vào mẫu phiếu mua hoá đơn những nội dung như: ảnh chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh. (26)
II. Thực hiện chế độ tự kê khai, tự nộp thuế
Trước tình hình gian lận thuế GTGT hiện nay, việc thay đổi cơ chế quản lý thuế và thu thuế cũng là một biện pháp cần thiết. Gần đây, nhiều bài phân tích, nhiều công trình nghiên cứu đưa ra biện pháp áp dụng chế độ tự kê khai và nộp thuế. Người viết cũng xin giới thiệu trong luận văn này mô hình quản lý tự kê khai, tự nộp thuế. Đây là một phương thức quản lý thu thuế tiên tiến, hiện đại, đang được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Theo cơ chế này thì các tổ chức, cá nhân nộp thuế căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ kê khai của mình và căn cứ vào các quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế tự tính ra số thuế phải nộp ngân sách nhà nước, từ đó tự kê khai và tự thực hiện nghĩa vụ nộp số thuế đã kê khai vào Ngân sách nhà nước theo thời hạn đã quy định của pháp luật.
Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đòi hỏi tổ chức, cá nhân nộp thuế phải nâng cao trách nhiệm vì tờ khai là do tổ chức, cá nhân nộp thuế tự lập trên cơ sở kết quả sản
xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà không cần có sự xác nhận của cơ quan thuế. Tổ chức, cá nhân nộp thuế chịu trách nhiệm về kết quả của việc tính thuế, kê khai thuế của mình trước pháp luật.
Để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nộp thuế hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật thuế từ đó thực hiện tốt nghĩa vụ kê khai nộp thuế, cơ quan thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các thắc mắc về chính sách chế độ thuế mà các tổ chức, cá nhân nộp thuế thường gặp phải trong quá trình kê khai nộp thuế. Cơ quan thuế không can thiệp đến quá trình kê khai và nộp thuế của tổ chức, cá nhân kinh doanh, nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không kê khai, không nộp thuế, trốn thuế, gian lận thuế…
Qua nghiên cứu về chương trình thí điểm áp dụng cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế ở Hà Nội, người viết rút ra được những kinh nghiệm và bài học để áp dụng khi thực hiện chương trình này đối với các tỉnh, thành, địa phương khác.
1. Tác dụng của việc áp dụng chế độ tự kê khai và tự nộp thuế
Mô hình quản lý theo cơ chế tự khai và nộp thuế GTGT sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho cả cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân nộp thuế.
Đối với tổ chức và cá nhân nộp thuế
Khi nhà nước ban hành chế độ tự kê khai và nộp thuế, các tổ chức và cá nhân sẽ giảm được nhiều thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai thuế và nộp thuế của mình vì họ đã có toàn quyền kê khai thuế và chỉ việc nộp thuế trên cơ sở số thuế họ tự kê khai. Cơ quan thuế khi đó sẽ có nhiệm vụ kiểm tra lại việc kê khai của doanh nghiệp xem có trung thực và chính xác không.
Tổ chức, cá nhân nộp thuế được chủ động trong việc nộp thuế vào Ngân sách nhà nước nên sẽ chủ động được việc cân đối nguồn tài chính của doanh nghiệp mình. Họ biết khi nào họ phải nộp thuế và nộp bao nhiêu nên rất chủ động trong việc lập kế hoạch tài chính.
Đối với cơ quan thuế
Khi áp cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế, các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế đã phải thực hiện toàn bộ quá trình kê khai và nộp thuế, những công việc mà trước đây cơ quan thuế phải làm nên khi áp dụng cơ chế này cơ quan thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có, công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên môn hoá. Nhân lực cho công tác theo dõi kê khai thuế và thu thuế ở các cơ quan thuế trước đây, nay sẽ có điều kiện tập trung vào công tác phục vụ, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình đối với ngân sách nhà nước và có điều kiện để công tác thanh tra kiểm tra và cưỡng chế thuế có hiệu quả hơn đối với các cơ sở kinh doanh thuộc diện có nhiều khả năng không tuân thủ thực hiện nghĩa vụ thuế. Thực hiện theo cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế mà cụ thuể là đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý thu thuế để đảm bảo việc kiểm tra lại các thông tin mà các tổ chức, cá nhân tự kê khai.
2. Các điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế
Thực hiện chế độ tự kê khai và tự nộp thuế là rất cần thiết để cơ quan nhà nước có thể quản lý tốt được việc thực hiện nghĩa vụ thuế cuả các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được chế độ này, cần phải có một số điều kiện đối với các cơ quan quản lý cũng như điều kiện đối với đối tượng nộp thuế.
Điều kiện trước tiên là người dân phải có hiểu biết cơ bản về thuế; tổ chức, cá nhân kinh doanh phải hiểu rõ chính sách thuế để thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình. Theo mô hình mới thì doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc kê khai và nộp thuế nên doanh nghiệp phải nắm rõ luật thuế GTGT và nghiệp vụ kế toán thuế để có thể kê khai thuế đúng thủ tục, chính xác về số liệu kế toán.
Các thủ tục đăng ký nộp thuế, kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế phải đơn giản, dễ hiểu để đảm bảo tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp đều có thể thực hiện được.
Một điều kiện hết sức quan trọng đó là hệ thống xử phạt nghiêm minh, công bằng để đảm bảo thắt chặt việc thực hiện luật thuế GTGT. Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải thực sự nghiêm minh để nâng cao tinh thần tự giác cho các doanh nghiệp.
Để có được đầy đủ các điều kiện trên, đòi hỏi cơ quan thuế phải có biện pháp tổng thể để tiến hành cải cách đồng bộ trên tất cả các mặt
2. Nội dung chế độ doanh nghiệp tự kê khai và tự nộp thuế
Nội dung chế độ tự kê khai và tự nộp thuế
Theo chế độ về tự kê khai và tự nộp thuế thì các cơ sở kinh doanh tự kê khai, tự xác định số thuế phải nộp và nộp tờ khai cho các cơ quan thuế. Cơ sở kinh doanh chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc tính thuế, kê khai thuế. Trên cơ sở số thuế đã kê khai, cơ sở kinh doanh chủ động nộp tiền thuế vào Ngân sách nhà nước. Các thủ tục về kê khai và nộp thuế được quy định đơn giản và thuận tiện để các đơn vị kinh doanh có thể hiểu và tự thực hiện được nghĩa vụ của mình. Khi giao quyền và trách nhiệm cho các đơn vị kinh doanh, thì pháp luật cũng phải xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh và cơ quan thuế theo cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế đặc biệt là những quy định bảo vệ quyền lợi chính đáng của đối tượng nộp thuế và những thẩm quyền bảo đảm cơ quan thuế thực hiện công tác thanh tra, cưỡng chế, thu nợ thuế.
Do cơ chế tự kê khai và tự nộp thuế rất mới mẻ nên không chỉ các doanh nghiệp cần được phổ biến mà ngay cả các cán bộ trong ngày thuế cũng cần được bồi dưỡng thêm chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện tốt hơn công tác quản lý thuế theo chế độ mới. Một số chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế thay đổi nên cũng cần cải tạo bộ máy quản lý thuế theo một mô hình mới phù hợp hơn. Bộ máy quản lý thuế ở cơ
quan thuế các cấp phải được cải tạo theo hướng tổ chức tập trung theo các chức năng: tuyên truyền, hướng dẫn cơ sở kinh doanh; theo dõi, xử lý việc kê khai thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế nhằm chuyên môn hoá, nâng cao năng lực quản lý thuế ở từng chức năng. Trên cơ sở tổ chức bộ máy quản lý thuế theo từng chức năng, cơ quan thuế phân định rõ ràng chức năng nhiệm vụ giữa các phòng ban, bộ phận; giữa cấp trung ương và các cấp địa phương, trong đó tăng cường vai trò của cấp trung ương trong việc xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, hướng dẫn giám sát và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của các địa phương. Tương ứng với việc cải cách về bộ máy tổ chức, cán bộ thuế được đào tạo có đủ kiến thức, năng lực để thực hiện kỹ năng quản lý thuế chuyên sâu, tăng tính chuyên nghiệp theo từng chức năng quản lý.
Để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, các quy trình quản lý được cải cách theo hướng hiện đại với sự hỗ trợ lớn của công nghệ thông tin. Các quy trình này được xây dựng phù hợp với bộ máy tổ chức theo mô hình chức năng và thể hiện nguyên tắc quản lý theo rủi ro. Đồng bộ với việc xây dựng các quy trình mới là các việc đẩy mạnh các nghiệp vụ quản lý theo từng chức năng quản lý. Trong nghiệp vụ hỗ trợ kinh doanh: cơ quan thuế chủ động nắm bắt và tổ chức tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế sát với yêu cầu, đặc điểm của từng nhóm đối tượng nộp thuế với những hình thức phù hợp và chất lượng tốt. Cơ quan thuế phải nắm được yêu cầu của khách hàng của mình, đó là đối tượng nộp thuế và có trách nhiệm cung cấp được những dịch vụ hỗ trợ đúng với yêu cầu của khách hàng. Trong ngiệp vụ xử lý tờ khai thuế , cơ quan thuế theo dõi các lỗi cơ sở kinh doanh đã mắc trong các tờ khai thuế của cơ sở kinh doanh từ tờ khai đầu tiên, qua các tờ khai điều chỉnh (nếu có) đến tờ khai cuối cùng. Qua đó, cơ quan thuế có thể đưa ra biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn cơ sở kinh doanh để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ; hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai chưa phù hợp; hoặc đó là một dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp thanh tra nếu việc mắc lỗi mang tính lặp đi lặp lại một cách cố ý. Đối với nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra trên cơ sở thu thập được đủ các
thông tin cần thiết về cơ sở kinh doanh (từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ các nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, dự báo những vấn đề nghi ngờ có gian lận trốn thuế nhằm lựa chọn trường hợp, chuẩn bị nội dung, cách thức thanh tra phù hợp. Cơ quan thuế cũng phải đẩy mạnh công tác đôn đốc và thu nợ thuế. Với sự hỗ trợ của các chương trình tin học, cơ quan thuế theo dõi chặt chẽ các trường hợp chậm nộp tờ khai, chậm nộp thuế, phát hành các thông báo nhắc nhở, các thông báo phạt đối với các cơ sở kinh doanh không nộp tờ khai và không nộp thuế. Cơ quan thuế theo dõi được số nộp cho số thuế phát sinh và số nộp cho nợ tồn đọng của cơ sở kinh doanh theo từng loại thuế. Qua đó xác định được tính chất của nợ thuế, mức nợ, tuổi nợ của từng món nợ thuế để có biện pháp thu nợ phù hợp theo hướng nhằm giảm các khoản nợ có mức nợ và tuổi nợ cao.
Tổ chức, bộ máy thực hiện thí điểm
Tổ chức triển khai một chế độ mới về thuế phải có sự hợp tác triển khai từ cấp cao xuống đến các địa phương và các đơn vị phối hợp chặt chẽ với nhau. Tổng cục thuế có chức năng chỉ đạo và hướng dẫn chung cho toàn ngành, các cục thuế và chi cục thuế chịu trách nhiệm hướng dẫn triển khai cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp trên địa bàn của mình. Về bộ máy chuyên môn của các cơ quan thuế, được tổ chức thành 4 tổ chuyên môn phụ trách 4 mảng chính là Tổ tuyên truyền và hỗ trợ kinh doanh, Tổ xử lý tờ khai thuế và tổng hợp, Tổ đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế và Tổ thanh tra kiểm tra.
Tổ tuyên truyền và hỗ trợ cơ sở kinh doanh: Khi áp dụng một cơ chế mới thì điều quan trọng đầu tiên là công tác tuyên truyền, vì vậy Tổ tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã tổ chức tập huấn về cơ chế tự kế khai và nộp thuế, hướng dẫn lập tờ khai thuế GTGT theo cơ chế mới; giải đáp hướng dẫn về thủ tục liên quan đến các hóa đơn chứng từ…Tổ tuyên truyền cũng đã đối thoại với các doanh nghiệp để nghe phản hồi từ các doanh nghiệp về các khó khăn, vướng mắc mà họ đang gặp