Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Thực Thi Pháp Luật Quy Hoạch ,

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực thi pháp luật quy hoạch ,

kế hoac̣ h sử dun

g đấ t trong giai đoan

hiên

nay

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về quy hoạch, kế hoac̣ h sử dun

g đất

* Đổi mới những quy định chung mang tính định hướng về pháp luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Thứ nhất, rà soát, phân tích, đánh giá lại toàn bộ các quy định của pháp luật về các loại quy hoạch khác, như pháp luật về quy hoạch xây dựng, pháp luật về quy hoạch môi trường, pháp luật về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ trong pháp luật quy hoạch

Tại mục 1, chương II của Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định về quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, đã có cách tiếp cận giống như cách tiếp cận quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 13 quy định về nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. một trong những nguyên tắc đó là: Việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải đồng bộ với việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 còn quy định về căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Điều 14); nội dung quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Điều 15); kỳ quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Điều 16); trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Điều 17); thẩm quyền phê duyệt, quyết định quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quyết định xác lập các khu rừng (Điều 18); điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, xác lập các khu rừng (Điều 19); công bố quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Điều 20); thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Điều 21). Vẫn với cách tiếp cận quy hoạch, kế hoạch như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhưng tại Điều 21 quy định về thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng có một điểm tiến bộ mà pháp luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần tham khảo là quy định về sự kiểm soát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sau khi phê duyệt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Khác với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy hoạch xây dựng lại được tiếp cận theo một cách khác. Tại chương 2, Luật Xây dựng năm 2014 quy định về quy hoạch xây dựng. Nhưng không quy định chung các nội dung cho các loại quy hoạch, mà mục 1 Chương II, từ điều điều 13 đến điều 21 quy định chung, bao gồm quy định về kỳ quy hoạch xây dựng, yêu cầu chung của quy hoạch xây dựng, điều kiện của các tổ chức, cá nhân thiết kế quy hoạch xây dựng, phân loại quy hoạch xây dựng. Mục 2, 3, 4 quy định cụ thể về các loại quy hoạch như quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch xây dựng khu chức năng đặc thù, quy hoạch xây dựng nông thôn với các nội dung về điều chỉnh, nội dung, trình tự, thẩm quyền xây dựng vv. Mục 5, 6, 7 quy định cụ thể về thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng. Còn mục 8 quy định riêng về quản lý quy hoạch xây dựng. Tuy nhiên, trong các quy định của pháp luật về quy hoạch xây dựng không thấy nhấn mạnh đến sự thống nhất với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Từ việc nghiên cứu, hệ thống và phân tích các quy định của pháp luật về các loại quy hoạch, đổi mới pháp luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải làm sao cho thống nhất, đồng bộ với các quy định của pháp luật về các loại quy hoạch khác. Luật đất đai phải thống nhất với Luật xây dựng năm 2014, Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Luật nhà ở năm 2014…

Thực thi pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất qua thực tiễn tại thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội - 12

Quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch tổng hợp chuyên ngành, cụ thể hoá quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nội dung của nó phải được điều hoà thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy khi xây dựng pháp luật về quy hoạch đất đai phải nghiên cứu để quy hoạch đất đai thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội.

Thứ hai, đổi mới quy định của pháp luật đất đai về nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Sự thống nhất, đồng bộ trong pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng

đất còn thể hiện trong sự thống nhất giữa các cấp quy hoạch sử dụng đất (quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, quy hoạch sử dụng đất của vùng, quy hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất cấp huyện). Các quy hoạch đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để tạo nên một chỉnh thể thống nhất về quy hoạch sử dụng đất làm cơ sở cho việc bảo đảm an ninh lương thực, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững để đáp ứng được các yêu cầu thực tế của xã hội. Ngoài ra cũng để tạo ra sự thống nhất, quy hoạch sử dụng đất cấp trên phải định hướng cho quy hoạch sử dụng đất cấp dưới, phù hợp với nhu cầu sử dụng đất của cấp dưới, con quy hoạch sử dụng đất cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của cấp trên, không được trái với quy hoạch sử dụng đất của cấp trên.

Thứ ba, trong hệ thống các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện nay, nên chăng quy định thêm một cấp quy hoạch đó là quy hoạch sử dụng đất của vùng, quy định này vừa thống nhất với luật xây dựng, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy hoạch vùng là quy hoạch tổng hợp, trên cấp và vượt ra khỏi khuôn khổ điểm dân cư thuộc phạm vi lãnh thổ của một vùng quy hoạch với sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý địa phương. Quy hoạch vùng cụ thể hóa các chương trình và kế hoạch của quy hoạch lãnh thổ quốc gia, bổ sung và làm phong phú thêm các chương trình và kế hoạch đó. Mục tiêu của quy hoạch vùng là khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, tiềm lực và điều kiện của các vùng, tạo lập hợp lý và có kế hoạch các mối quan hệ của các hoạt động và quá trình của cuộc sống xã hội và của con người trong các không gian lãnh thổ, nhằm đẩy mạnh và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao và đáp ứng tốt nhất những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, bảo vệ môi trường và cảnh quan, duy trì cân bằng sinh thái.

Quy hoạch vùng có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh

tế xã hội của đất nước, nó có mối quan hệ chặt chẽ, và ảnh hưởng mạnh mẽ tới quy hoạch khu dân cư và quy hoạch chuyên ngành. Vì vậy để đất đai được sử dụng hợp lý, hệ thống quy hoạch sử dụng đất phát huy hiệu quả, đối với những vùng kinh tế trọng điểm, những vùng kinh tế-xã hội đặc biệt nghiêm trọng thì cũng nên xây dựng quy hoạch vùng.

Thứ tư, sửa đổi quy định của pháp luật về căn cứ lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất.

Trên cơ sở nguyên tắc lập quy quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy định về căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất nên quy định cụ thể cho mỗi cấp quy hoạch. Yêu cầu của hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải thống nhất, phải là một chỉnh thể hoàn chỉnh, song mỗi cấp quy hoạch lại có nhiệm vụ, mục tiêu riêng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội và vốn đất của mỗi địa phương. Pháp luật quy định chung các nội dung cho tất cả các các cấp quy hoạch sử dụng đất là bất hợp lý, kém hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất của cấp trên không chỉ là phép cộng đơn thuần các quy hoạch cấp dưới. Vì vậy cần đổi mới pháp luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng quy định cụ thể căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất cho cả nước, cho quy hoạch sử dụng đất của vùng, cho quy hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh và cho quy hoạch sử dụng đất của cấp huyện trên nguyên tắc quy hoạch sử dụng đất cấp dưới phải căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất cấp trên và phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực của đơn vị lập quy hoạch.

* Đổi mới quy định pháp luật về nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Thứ nhất , đổi mới quy định pháp luật về nội dung quy hoạch sử dụng đất.

Để đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả cho quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xuất phát từ nhiệm vụ, mục tiêu của mỗi cấp quy hoạch là khác

nhau. Nội dung của quy hoạch sử dụng đất các cấp cũng cần quy định riêng cho từng cấp, trong đó nội dung của quy hoạch sử dụng đất của cả nước sẽ xác định chỉ tiêu khống chế về diện tích đất trồng lúa nước, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ và phân bổ đến từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đối với đất quốc phòng, đất an ninh, đất khu bảo tồn thiên nhiên, đất khu vực đô thị, đất khu công nghiệp, đất khu công nghệ cao, đất khu kinh tế, đất phát triển hạ tầng và các loại đất khác nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực có tầm quan trọng quốc gia, nội dung quy hoạch sử dụng đất của cả nước sẽ xác định diện tích và phân bổ đến từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Nội dung quy hoạch sử dụng đất của cả nước còn cần khoanh định trên bản đồ ranh giới các khu vực đất chuyên trồng lúa nước, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất khu bảo tồn thiên nhiên; xác định vị trí các công trình có tầm quan trọng quốc gia và đề xuất các giải pháp về cơ chế, chính sách, các chương trình, dự án để thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất. Khoanh vùng bảo vệ các diện tích đất nông nghiệp quan trọng, nhất là diện tích đất trồng lúa nước.

Thứ hai, Đổi mới quy định của pháp luật về kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Để đảm bảo yêu cầu định hướng, chiến lược của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Pháp luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hiện hành quy định kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm, kỳ kế hoạch sử dụng đất là 5 năm (Điều 37 Luâṭ đất đai năm 2013). Quy hoạch sử dụng đất luôn tồn tại trong trạng thái động, đồng thời cũng phải ổn định, vì vậy phải quy định kỳ quy hoạch như vậy để trách tình trạng điều chỉnh, chắp vá quy hoạch không cần thiết. Quy hoạch sử dụng đất vừa mang tính dự báo chiến lược lại vừa mang tính khả biến, tức nó tồn tại trong trang thái động, linh hoạt song vẫn phải đảm bảo được sự ổn định, tính dự báo, chiến lược. Để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu

cầu định hướng chiến lược, với nhu cầu biến đổi cho phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội, kiến nghị sửa đổi, quy định kỳ quy hoạch sử dụng đất của cả nước là 20 năm, kỳ quy hoạch sử dụng đất của địa phương là 10 năm. Kỳ kế hoạch sử dụng đất của cả nước là 5 năm, kỳ kế hoạch sử dụng đất của địa phương là 1 năm.

Thứ ba, Đổi mới quy định của pháp luật về xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Thực tế không thể phủ nhận là quy hoạch sử dụng đất của chúng ta hiện nay chất lượng thấp, không có tính khả thi, hiệu qủa thấp, tức quy hoạch sau khi được tổ chức xây dựng với rất nhiều chi phí nhưng nó lại không được thực hiện, vấn đề quy hoạch “treo”, đang trở thành vấn đề nóng của xã hội. Một trong những nguyên nhân là do pháp luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quy định chưa rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của các bộ chuyên ngành trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trách nhiệm lập quy hoạch cần quy định rõ:

Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch sử dụng đất của cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch sử dụng đất cả nước, hướng dẫn việc lập quy hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh và cấp huyện.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm đề xuất nhu cầu sử dụng đất chuyên trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất khu bảo tồn thiên nhiên; các Bộ, ngành khác có trách nhiệm đề xuất nhu cầu sử dụng đất phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển của ngành, lĩnh vực.

Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc lập quy hoạch sử dụng đất đối với vùng.

Thứ tư , đổi mới pháp luật về quản lý là thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Giao trực tiếp trách nhiệm cho các Bộ và Ủy ban nhân dân trong việc

thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong đó vẫn cần nhấn mạnh vai trò của Bộ tài nguyên và Môi trường trong việc tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh và còn chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích an ninh, quốc phòng, để tránh tình trạng sử dụng đất trái mục đích, trái quy hoạch như trong thời gian qua. Cụ thể nên đổi mới quy định về thực hiện quy hoạch sử dụng đất như sau:

Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất của cả nước; kiểm tra việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an kiểm tra việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bảo toàn quỹ đất chuyên trồng lúa nước, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ đã được xác định trong quy hoạch sử dụng đất.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất của địa phương; kiểm tra việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất của địa phương cấp dưới trực tiếp.

Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất của địa phương đã được xét duyệt; chỉ đạo Ủy ban nhân xã, phường, thị trấn kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền các hành vi sử dụng đất trái với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố.

Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện

tích đất phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

Nhà nước nghiêm cấm mọi hoạt động tự ý xây dựng, đầu tư bất động sản trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trường hợp có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình gắn liền với đất phải thu hồi mà làm thay đổi quy mô, cấp công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án, công trình hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau ba năm không được thực hiện theo kế hoạch thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh hoặc huỷ bỏ và công bố.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quy hoạch ,

kế hoac̣ h sử dun

g đất trên đia

bàn thi ̣xã Sơn Tây thành phố Hà Nội

* Kiên

toàn bô ̣ má y nhà nướ c về công tá c quản lý đất đai

Muốn hoạt động quy hoac̣ h, kế hoac̣ h sử dun

g đất diễn ra nhanh chóng

và chính xác thì trước hết cần xác lập một cơ chế quản lý đất đai đồng bộ.

Về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước hiện nay cần có sự chỉ đạo tập chung thống nhất, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố khẩn trương kiện toàn bộ máy các cơ quan chuyên môn, đảm bảo đủ năng lực giúp uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về đất đai, bố chí đủ cán bộ, công chức phù hợp với nhiệm vụ được giao. Chỉ đạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các

cơ quan có trách nhiệm liên quan trong việc quy hoac̣ h, kế hoac̣ h sử dun

g đất;

Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn kịp thời đẩy nhanh tiến độ lập

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí