Số lượng thanh niên trong độ tuổi lao động cao nhưng trình độ thanh niên còn thấp, tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp phổ thông cao, 52% lao động chưa qua đào tạo. Các công việc có yêu cầu chuyên môn kỹ thuật càng cao thì số lượng thanh niên đáp ứng được càng ít. Bất cập trong cung cầu lao động thể hiện rõ, thiếu lao động có chuyên môn nghề nghiệp, thừa lao động phổ thông; thiếu công nhân kỹ thuật, thừa lao động có trình độ cao đẳng trở lên. Theo đánh giá của các chủ doanh nghiệp trên thành phố, lực lượng lao động là thanh niên cũng còn rất hạn chế về tác phong công nghiệp, ngại các công việc chân tay… Một bộ phận thanh niên có bằng cấp kỹ thuật nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu công việc, đòi hỏi phải đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung.
Thành phố chưa có quy hoạch đầu tư ưu đãi một số ngành. Việc phát triển kinh tế trang trại vẫn chưa được phát triển mạnh. Các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thời hạn hoạt động cho các dự án phát triển trang trại còn chưa được quy định cụ thể, việc đầu tư cơ sở hạ tầng còn dàn trải. Trình độ quản lý của các chủ trang trại còn thấp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm hoặc phán đoán. Số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, có quy mô nhỏ, sử dụng khoảng 10 - 12 lao động. Chưa có nhiều chính sách thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lực lượng thanh niên tự mở cơ sở sản xuất kinh doanh mới còn rất thấp.
Thông tin về việc làm chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. Lượng thông tin tuyên truyền rất ít, chưa đủ đảm bảo cho người dân lượng thông tin cần thiết. Các thông tin chưa kịp thời, chưa có thông tin phát định kỳ và liên tục về nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan đơn vị. Công tác tư vấn hướng nghiệp còn mang tính hình thức, chưa có những hình thức khoa học để tư vấn chọn nghề thông qua thế chất, tâm lý, đặc điểm người học.
Công tác đào tạo nghề cho thanh niên chưa được đầu tư đồng bộ cả về cơ sở vật chất kỹ thuật đến nội dung chương trình, mục tiêu đào tạo, đội ngũ
giáo viên, trang thiết bị dạy học và phôi liệu thực hành… do đó, chất lượng đào tạo thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường sức lao động. Việc xác định nhu cầu đào tạo của thanh niên còn sơ xài, mang tính chủ quan dẫn tới nhiều lớp học có số lượng tham gia ít, ảnh hưởng tới kinh phí tổ chức lớp học và hiệu quả học tập.
Hoạt động tín dụng hỗ trợ giải quyết việc làm còn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay được phân bổ cho ngân hàng Chính sách thành phố Buôn Ma Thuột. Đối tượng vay vốn chủ yếu là các hộ nghèo hoặc hộ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bộ đội xuất ngũ…. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lại không được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi. Nguồn vốn xã hội hóa vận động còn ít, khả năng thu hồi vốn khó. Việc lựa chọn đối tượng vay vốn còn bất cập, mang tính chủ quan, ngành nghề hoặc đề án vay có tính khả thi thấp.
Số thanh niên tham gia đi làm việc ở nước ngoài còn ít, mức chi phí để xuất khẩu lao động ở một số nước còn cao; mới chỉ tập trung xuất khẩu lao động làm việc trong các ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn thấp.
Quản lý Nhà nước về việc làm của Thành phố còn nhiều bất cập, khả năng hoạch định chính sách về lao động và việc làm cho thanh niên còn nhiều hạn chế, qua nhiều khâu trung gian, thiếu sự kiểm tra, giám sát, đánh giá khách quan, chính xác.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Tích Việc Thực Hiện Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên
- Đôn Đốc, Theo Dõi, Kiểm Tra Thực Hiện Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên Thành Phố Buôn Ma Thuột
- Đánh Giá Chung Về Thực Hiện Chính Sách Chính Sách Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Thành Phố Buôn Ma Thuột
- Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 10
- Thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 11
Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.
2.5.3. Nguyên nhân
2.5.3.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Theo định hướng quy hoạch của Trung ương, theo kết luận số 60 của Bộ chính trị, thành phố Buôn Ma Thuột sẽ là trung tâm phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của vùng Tây Nguyên. Chính vì lẽ đó, kinh phí đầu tư vào thành phố sẽ tăng lên, kèm theo đó là sự mở rộng và phát triển các khu công nghiệp, khu du lịch sinh thái, giải trí sẽ thu hút được nhiều lao động vào làm việc.
Cùng với xu thế hội nhập, Tỉnh Đắk Lắk nói chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng sẽ có điều kiện nâng cao điều kiện sản xuất, giải quyết việc làm thông qua hoạt động xuất khẩu lao động, đưa lao động đi đào tạo nước ngoài. Điều đó sẽ giúp cho thành phố phát huy và khai thác những tiềm năng sẵn có của mình để tự chuyển mình thành một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng và phát triển vững chắc.
Do có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành trong công tác phát triển kinh tế, phát triển kinh tế gắn với việc chăm lo, giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội cấp thiết như: giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, chăm lo công tác tới việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của thành phố trong những năm tới.
Bản thân thanh niên đã có những thay đổi phù hợp, dám nghĩ, dám làm, phấn đấu vươn lên vì mục đích thoát nghèo, làm giàu chính đáng cho bản thân và góp phần làm giàu cho quê hương đất nước.
Bên cạnh đó, nhờ quá trình tự do hóa thương mại, mở cửa ra bên ngoài, thành phố cũng đã thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì có sự đầu tư của nước ngoài đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, không những thế đã tạo điều kiện cho thanh niên nhận thức được tính tự học hỏi, tự trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn phục vụ quá trình đổi mới của thành phố.
2.5.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Điểm xuất phát của nền kinh tế Thành phố thấp, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, chuyển sang sản xuất hàng hóa chậm, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển dẫn tới sức ép về lao động và việc làm ngày càng tăng.
Một số nơi cấp ủy Đảng và chính quyền chưa xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế phù hợp nhằm khai thác triệt để các nguồn lực sẵn có.
Thành phố chưa có chủ trương quy hoạch hoặc có những chính sách cụ thể cho phát triển kinh tế trang trại, khơi dậy và phát huy giá trị ngành nghề truyền thống.
Chưa thiết lập được hệ thống thông tin đồng bộ về thị trường lao động, đặc biệt nhu cầu việc làm từ thành phố đến cấp xã, phường. Việc cập nhật thông tin, báo cáo ở cấp cơ sở không nghiêm túc, không thường xuyên dẫn đến việc đánh giá kết quả giải quyết việc làm hàng năm và dự báo về thị trường lao động chưa chính xác và kịp thời làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giải quyết việc làm trên địa bàn thành phố.
Chất lượng cán bộ, giáo viên làm công tác giới thiệu việc làm vẫn còn bất cập, thiếu năng động, sáng tạo, chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu mới. Sự gắn kết giữa Trung tâm giới thiệu việc làm, Trường dạy nghề và các trung tâm dạy nghề và doanh nghiệp chưa tốt.
Công tác điều tra, xác định nhu cầu học tập của cộng đồng mang tính chủ quan. Tài chính phân bổ cho đào tạo nghề còn ít, dẫn tới cơ sở, trang thiết bị phục vụ đào tạo nghề thiếu. Việc xác định mục tiêu, phương pháp giảng dạy và đội ngũ giáo viên dạy nghề còn hạn chế.
Động cơ, thái độ của thanh niên về việc làm chưa đúng đắn, vẫn còn số đông thanh niên có tư tưởng chờ được bố trí, sắp xếp việc làm ở khu vực kinh tế nhà nước, không chủ động tìm việc làm ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Tâm lý thụ động trong tìm kiếm thông tin, kỹ năng mềm, tác phong công nghiệp và tâm lý ngại lao động chân tay cũng là rào cản lớn cho thanh niên trong quá trình tìm kiếm việc làm.
Số lượng vốn vay được phân bổ hàng năm còn hạn chế, trong khi hộ có nhu cầu vay lại quá nhiều, dẫn tới lượng vốn nhỏ. Đối tượng được vay vốn
chỉ hạn chế ưu đãi tới các hộ gia đình, không ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn đã nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Buôn Ma Thuột cũng như nghiên cứu nội dung chính là thực trạng giải quyết việc làm cho thanh niên Thành phố thông qua khái quát các chính sách giải quyết việc làm nói chung và cụ thể tình hình thực hiện các chính sách này của thành phố Buôn Ma Thuột. Luận văn đã nghiên cứu tình hình thực hiện các chính sách về tín dụng, đào tạo nghề, hỗ trợ doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, từ đó đưa ra các kết quả, hạn chế của các công tác này. Luận văn cũng đã đưa ra hai nhóm nguyên nhân chính về khách quan và chủ quan của các hạn chế nêu trên, để từ đó là cơ sở đưa ra giải pháp trong chương 3.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột
3.1.1. Quan điểm hoàn thiện việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên
Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho thanh niên nói chung và sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, chính quyền thành phố Buôn Ma Thuột đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn chưa tương xứng với những nỗ lực và nguồn lực bỏ ra cũng như sự kỳ vọng. Do đó, để đẩy mạnh giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột trong thời gian tới, cần tiếp tục “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”; các Nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động của cấp ủy đảng, chính quyền, Đoàn thanh niên… Thành phố và Thành phố, tập trung trên một số phương hướng cơ bản sau:
Tập trung hướng dẫn, hỗ trợ thanh niên vay vốn học nghề, lập nghiệp; phối hợp hỗ trợ thanh niên vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn 120 và nguồn vốn của Ngân hàng chính sách xã hội; định hướng, tư vấn, hỗ trợ thanh niên đi xuất khẩu lao động tại các thị trường có tiềm năng. Tiếp tục tổ chức tốt hoạt động tư vấn, hướng nghiệp, hỗ trợ nghề nghiệp việc làm cho học sinh trung học phổ thông, bộ đội xuất ngũ, sinh viên, học sinh trung cấp chuyên nghiệp và các đối tượng khác.
Các hoạt động hỗ trợ đoàn viên, thanh niên trong học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng, nghề nghiệp và việc làm cần tiếp tục được quan tâm và triển khai đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức như: phối hợp tổ chức lớp phổ cập tin học, ngoại ngữ ...; tổ chức tư vấn giới thiệu việc làm cho hơn 2.000 thanh niên mỗi năm.
Chỉ đạo 100% các cơ sở Đoàn tổ chức các hoạt động tư vấn, hướng nghiệp cho đoàn viên thanh niên bằng nhiều hình thức phong phú: Đối thoại trực tiếp với lãnh đạo đơn vị có nhu cầu tuyển dụng lao động để từ đó đưa ra phương hướng đào tạo nghề cho phù hợp với các vị trí cần tuyển dụng, tọa đàm.
Tổ chức hội thi “Thanh niên công nhân khéo” đối với đoàn viên thanh niên khối công nhân viên chức trực thuộc, nhằm khích lệ tinh thần, sự ham học hỏi, trau dồi kiến thức của Thanh niên công nhân trong các doanh nghiệp tạo sự ổn định dài lâu cho người lao động, và sự bền vững của doanh nghiệp.
Chủ động liên hệ với các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn Thành phố để đưa Thanh niên vào nghiên cứu thực tế, từ đó tuyên truyền đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia học tập, nâng cao trình độ, tay nghề phù hợp với
bước phát triển hiện nay.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện việc thực hiện chính sách việc làm cho thanh niên trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột
Trên cơ sở những phương hướng trên, để giải quyết việc làm cho người lao động là thanh niên thành phố Buôn Ma Thuột đạt hiệu quả cao, cần thống nhất nhận thức thực hiện các định hướng sau đây:
Một là, cần phải có quan niệm, nhận thức đúng đắn về việc làm, theo hướng sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động, tạo mở được nhiều việc làm. Điều 13, chương II của Bộ Luật Lao động Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2019) xác định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Với quy định trên thì tất cả những người làm việc ở các thành phần kinh tế đều được coi là việc làm. Xóa bỏ tâm lý nặng nề coi trọng lao động làm việc khu vực Nhà nước, coi thường và xem nhẹ lao động việc làm trong khu vực ngoài Nhà nước.
Hai là, phải đa dạng hóa giải quyết việc làm cho thanh niên và người lao động; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế cùng tạo việc làm cho người lao động Nhà nước đã hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng chương trình giải quyết việc làm. Có hệ thống chính sách ưu đãi, tạo ra môi trường và các điều kiện để người lao động tự do làm ăn, tự do tạo việc làm cho mình và cho người khác đúng pháp luật, phát huy mức cao nhất nhân tố con người và khả năng sáng tạo của con người. Thực hiện phương châm tự do lo việc làm trong các thành phần kinh tế là chính, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Người lao động cần chủ động sáng tạo, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác trong các thành phần kinh tế phù hợp với pháp luật và điều kiện cụ thể của từng địa phương. Bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp và tạo điều kiện môi trường thuận lợi của hệ thống chính quyền các cấp, cần phát huy vai trò và huy động sự tham gia rộng rãi của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp và mọi người dân tham gia giải quyết việc làm cho thanh niên và người lao động nói chung…