Tác giả Hà Thanh trong bài viết Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới đăng trên Tạp chí Cộng sản số 133 (1-2018) khẳng định: Thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tuy từng bước được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, điều chỉnh hợp lý hơn, song vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Vì vậy, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phải đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển [34].
Trao đổi về thực tiễn thực hiện ở cơ sở, tác giả Minh Anh trong bài viết Từ kết quả bước đầu thí điểm một mô hình, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9-2017 nhận định: Sự chồng chéo, “lấn sân” của nhiều tổ chức chính trị- xã hội đã cản trở nhiều hiệu quả hoạt động của mỗi tổ chức, đồng thời là một nguyên nhân gây khó tinh giản biên chế. Sắp xếp lại, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội sẽ là bước ngoặt trong thực hiện cải cách hành chính, tinh giản biên chế, tạo được phong cách làm việc chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu quả. Đó là mục đích của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội [1].
Tiến sĩ Đào Thị Thanh Thủy - Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trong bài viết Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đăng trên Tạp chí Lý luận số 1-2020 (13/4/2020) đã chỉ ra: Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” ngày 25- 10-2017 đến nay đã triển khai được hai năm. Nghị quyết đã được thể chế hóa thành nhiều văn bản do Quốc hội, Chính phủ ban hành. Quá trình thực hiện bước đầu đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt trong đổi mới, sắp xếp các cơ quan nhà
nước tương đồng hoặc trùng chéo về chức năng trong hệ thống. Tuy nhiên, cũng bộc lộ những khó khăn khiến việc sắp xếp ở nhiều nơi chưa đạt hiệu quả cao. Từ đó đặt ra một số vấn đề nhằm tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước trong hệ thống chính trị [39].
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong bài viết: “ Kết quả và kinh nghiệm qua hơn 2 năm thực hiện các Nghị quyết Trung ương về tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập” ngày 16/9/2020 trên Tạp trí cộng sản đã chỉ ra: “Qua 2 năm lãnh đạo tổ chức thực hiện hai nghị quyết nói trên, nhiều kết quả quan trọng, cụ thể đã đạt được, từ đó khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng về các giải pháp đột phá, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn các nghị quyết trên trong những năm tới” [41].
Tác giả Mai Văn Chính trong bài viết Những dấu ấn trong sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng (14/10/2020) đã tổng kết một số kết quả quan trọng trong thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tại các địa phương và chỉ ra những hạn chế, giải pháp thực hiện chính sách trong thời gian tới [15].
Đây là những công trình nghiên cứu mà trong quá trình xây dựng luận văn tôi đã khảo sát. Tuy nhiên, có thể đánh giá khái quát rằng đến nay chưa thật sự có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, đưa ra giải pháp tổ chức thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện mà mới chỉ dừng lại ở mức độ chung nhất, những chính sách áp dụng cho toàn bộ hệ thống chính trị. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng sẽ đóng vai trò tiên phong trong việc nghiên cứu chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy tại một địa phương cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng để đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách này trong các giai đoạn tiếp theo.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng - 1
- Đơn Vị Sự Nghiệp Công Và Chính Sách Cải Cách Tổ Chức Bộ Máy Các Đơn Vị Sự Nghiệp Y Tế Tuyến Huyện
- Phân Công, Phối Hợp Tổ Chức Thực Hiện Giữa Các Ngành, Các Cấp
- Mô Hình Tổ Chức Và Chức Năng Nhiệm Vụ Đơn Vị Sự Nghiệp Y Tế Tuyến Huyện Trước Khi Thực Hiện Chính Sách Cải Cách Tổ Chức Bộ Máy
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rò những vấn đề lý luận về chính sách và thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện.
Thứ hai, khảo sát và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cho thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Việc thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
- Về thời gian: từ năm 2018 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê - phân tích Thống kê các số liệu về tổ chức bộ máy, nhân lực, trang thiết bị, kinh phí trong quá trình thực hiện; phân tích các số liệu làm rò thực trạng thực hiện chính sách.
Phương pháp tổng hợp - so sánh
- Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các tài liệu, báo cáo liên quan đến thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy nói chung và thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy tại các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên đại bàn tỉnh Cao Bằng để thực hiện đề tài.
- Phương pháp so sánh: Sử dụng so sánh để đối chiếu giữa các kỳ trước, trong và sau khi thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy tại các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện tỉnh Cao Bằng.
Phương pháp phân tích chính sách
Tổng hợp các chính sách liên quan đến tình hình thực hiện cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước, xác định mục tiêu, nội dung thực hiện, đánh giá tác động của chính sách và đưa ra những khuyến nghị chính sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa và làm rò các vấn đề lý luận cơ bản về chính sách công, cơ sở thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy nói chung và cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế nói riêng; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế ở cấp huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế về thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, luận văn nêu lên thực trạng tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp tuyến huyện, nội dung thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện, Thành phố trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong những năm tới. Đây là những tư liệu kinh nghiệm cho các nhà quản lý ở các cơ quan hành chính nhà nước, địa phương tham khảo trong việc thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách cải cách tổ chức bộ máy tại các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: Giải pháp và khuyến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách cải cách tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp y tế tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH TỔ CHỨC BỘ MÁY ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP Y TẾ TUYẾN HUYỆN
1.1 Chính sách công và thực hiện chính sách công
1.1.1. Khái niệm chính sách công
Chính sách công là một trong những công cụ quan trọng của quản lý Nhà nước, thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được hiện thực hóa. Chủ thể ban hành chính sách công chính là Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực và các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về chính sách công được các học giả đưa ra. Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các định nghĩa đều thống nhất ở hai điểm cơ bản, đó là chính sách công bắt nguồn từ các quyết định của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn đề chung vì lợi ích của đời sống cộng đồng.
Theo đó có thể hiểu “Chính sách công là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc không thực hiện để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định”. [5.tr13]
1.1.2. Vai trò của chính sách công
Trong tiến trình phát triển của các xã hội, nhất là xã hội hiện đại, sự phát triển của mỗi lĩnh vực trong đời sống xã hội phụ thuộc rất lớn vào hệ thống chính sách của Nhà nước, bên cạnh các nguồn lực và vị thế địa chính trị mà mỗi quốc gia có được. Hệ thống chính sách là sự mở đường, là sự huy động trí tuệ tập thể của mỗi xã hội, các nguồn lực mang tính tiềm năng hay sẵn có của mỗi xã hội, từ đây các xã hội mới phát triển được.
Các lý thuyết hiện đại nhấn mạnh đến ba cột trụ của phát triển là: Kinh tế thị trường, nhà nước và xã hội dân sự. Trong khi kinh tế thị trường có chức năng điều tiết các hoạt động kinh tế, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, hiệu quả hóa các quá trình phát triển trên cơ sở tính toán các chi phí và giá thành, cũng như xã
hội dân sự giải quyết các vấn đề vi mô của các nhóm xã hội thì nhà nước đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô các quan hệ xã hội, xây dựng thể chế phát triển, tổ chức các hoạt động kinh tế vĩ mô, an ninh quốc phòng và phòng chống hiểm họa thiên tai, các quan hệ quốc tế ở tầm Nhà nước. Trong sự phân công này, các chính sách thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển, xây dựng mô hình, tập trung nguồn lực của mọi lực lượng xã hội để phát triển một lĩnh vực nào đó của xã hội.
Các thay đổi xã hội lớn đều có nguồn gốc từ sự thay đổi chính sách, mở đường cho những thể chế mới đi vào cuộc sống. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 là một minh chứng cho sự đi trước của chính sách trong phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam, khắc phục được cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, huy động được lực lượng sản xuất từ đó nâng cao mức sống, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Vai trò của chính sách công được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Định hướng cho các chủ thể tham gia hoạt động KT-XH;
- Khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động KT-XH theo định hướng;
- Phát huy mặt tích cực, khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường;
- Tạo lập các cân đối trong phát triển;
- Kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong xã hội;
- Tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động KT-XH;
- Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành.
Như vậy, để quản lý xã hội, các Nhà nước đã sử dụng chính sách là công cụ chủ yếu để giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng, nhằm thúc đẩy KT- XH phát triển theo định hướng.
1.1.3. Tổ chức thực hiện chính sách công
Sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai trong đời sống xã hội. Do vậy, tổ chức thực thi chính sách là tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý Nhà nước và cũng là để đạt mục
tiêu đề ra của chính sách. Tác giả Nguyễn Khắc Bình nêu khái niệm về thực hiện chính sách như sau:
“Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu định hướng của Nhà nước”. [6.tr1]
Trong quá trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định hướng để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nói cách khác, đây là quá trình kết hợp giữa con người với các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ nhằm sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
Chủ thể thực thi chính sách trước hết là các cơ quan hành chính nhà nước, bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý và tổ chức triển khai các công việc hàng ngày của Nhà nước. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp và tư pháp cũng như các tổ chức Đảng, đoàn thể cũng có vai trò quan trọng trong việc huy động và tổ chức lực lượng tham gia triển khai chính sách.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách công
Sau thập niên 70 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu về chính sách công đã xuất phát từ các góc độ khác nhau để nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách công, từ đó hình thành nên các mô hình khác nhau. Có thể kể đến một số nghiên cứu điển hình như sau:
Trong bài viết "Quá trình thực thi chính sách" (1973), T.B. Smith cho rằng, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách công, bao gồm: 1) chất lượng chính sách, cụ thể là mục tiêu chính sách có phù hợp với thực tế hay không, nội dung của chính sách có phù hợp, và phương án chính sách có rò ràng, khả thi hay không? 2) cơ quan hoặc tổ chức thực thi chính sách, tức năng lực của cơ quan hoặc tổ chức chịu trách nhiệm thực thi chính sách như thế nào? 3) đối tượng chính sách, tức mức độ tiếp nhận chính sách của đối tượng chính sách như thế nào? 4) nhân tố môi trường, tức môi trường văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách.