Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 13

là bao nhiêu, không được cho vay đầu tư chứng khoán quá bao nhiêu phần trăm,... cần dựa trên cơ sở khoa học, nhằm vừa đảm bảo được sự ràng buộc vừa cho phép ngân hàng tự chủ ở một mức hợp lý. Cần có các văn bản hướng dẫn từ trước để tránh gây khó khăn cho các ngân hàng trong các hoạt động của mình.

b. Giám sát và kiểm tra ngân hàng

Kiểm soát những người điều hành ngân hàng và cách thức ngân hàng hoạt động - giám sát ngân hàng (bank supervision) là một biện pháp quan trọng để hạn chế lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng. Việc kiểm tra tại chỗ (on-site bank examination) thường xuyên đối với các ngân hàng để kiểm tra xem liệu ngân hàng có tuân thủ các quy định về vốn và giới hạn nắm giữ tài sản hay không cũng giúp giảm rủi ro đạo đức. Việc đánh giá ngân hàng có thể dựa trên tiêu chí đánh giá CAMELS (CAMELS rating26) bao gồm: Mức dự trữ vốn đầy đủ (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản (Asset quality), Quản trị (Management), Doanh thu (Earnings), Tính thanh khoản (Liquidity) và Mức độ nhạy cảm với Rủi ro của thị trường (Sensitivity to market risk). Với những thông tin thu nhận được qua hệ thống đánh giá CAMELS trên đây, các cấp có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng các biện pháp quản lý nào đối với ngân hàng: có thể là tạm ngừng các hoạt động để chấn chỉnh lại hành vi của ngân hàng, hoặc thậm chí có thể đóng cửa ngân hàng nếu tỉ lệ CAMELS quá thấp. Những biện pháp hạn chế ngân hàng

tham gia vào các hoạt động rủi ro không chỉ có tác dụng ngăn chặn rủi ro đạo đức mà từ đó còn giúp ngăn chặn hiện tượng lựa chọn ngược trong ngành ngân hàng bởi khi ngân hàng ít có cơ hội để mạo hiểm thì những


26 Frederic S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial markets,

Pearson Addison Wisley, 342, New York, USA.

người ham thích mạo hiểm, muốn lợi dụng ngân hàng vào các hoạt động rủi ro cao sẽ không có ý định nhảy vào ngành ngân hàng nữa.

Việc chuẩn hóa các ngân hàng, sàng lọc các dự án mở ngân hàng mới một cách kỹ lưỡng cũng là một biện pháp nhằm ngăn cản những người kẻ có tư tưởng phạm tội, hay những người quá ưa liều lĩnh tham gia vào điều hành ngân hàng nhằm mục đích lợi dụng ngân hàng vào các hoạt động đầu cơ. Để được cấp phép thành lập ngân hàng, cá nhân và tổ chức phải trình kế hoạch điều hành ngân hàng của mình. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét kế hoạch quản trị ngân hàng này để đánh giá khả năng lành mạnh về tài chính trong tương lai của ngân hàng, doanh thu tiềm năng, số vốn đầu tư ban đầu

Các ngân hàng được phép thành lập sẽ bị yêu cầu phải tiến hành báo cáo định kỳ trong đó thể hiện tài sản và nguồn vốn của ngân hàng, thu nhập và cổ tức, quyền sở hữu, hoạt động quản lý ngoại hối, và những chi tiết khác. Hàng năm, các cơ quan giám sát ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ngân hàng để xem xét tình trạng tài chính của đơn vị. Các cơ quan quản lý có thể tiến hành kiểm tra sổ sách bất ngờ để xem ngân hàng có tuân thủ đúng những quy định về tỉ lệ vốn và hạn chế nắm giữ tài sản hay không. Nếu nhận thấy ngân hàng nắm giữ quá nhiều tài sản rủi ro, cơ quan giám sát có thể yêu cầu ngân hàng từ bỏ các tài sản đó hay có thể yêu cầu đánh giá lại các khoản nợ và xóa đồng thời ghi nhận chi phí những khoản nợ được đánh giá là khó đòi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

c. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro

Thông thường, việc giám sát tại chỗ đối với ngân hàng tập trung chủ yếu vào việc đánh giá chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng đó vào một thời điểm nhất định và xem xét xem liệu ngân hàng đó có tuân thủ các

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 13

quy định về vốn hay không. Tuy nhiên, trong nền tài chính phát triển hiện đại như ngày nay, biện pháp đó là không đủ. Việc kiểm tra sự lành mạnh về tài chính của ngân hàng trong một thời điểm chưa thể khẳng định được rằng liệu ngân hàng đó sẽ tham gia vào các hoạt động rủi ro cao trong tương lai hay không. Chính vì có khả năng tham gia vào các dự án rủi ro trong tương lai nên một ngân hàng có thể có tình hình tài chính lành mạnh thời điểm hiện tại có thể tuyên bố phá sản bất cứ lúc nào do các thua lỗ trong thương mại. Vì thế, cần phải xem xét những chỉ tiêu có thể phản ánh khả năng tham gia vào các hoạt động rủi ro của ngân hàng. Các nhà giám sát ngày nay thường quan tâm nhiều hơn tới công tác đánh giá sự lành mạnh trong công tác quản lý ngân hàng thông qua tiêu chí kiểm soát rủi ro. Ngày nay, các cơ quan giám sát thường đánh giá hoạt động quản trị rủi ro của ngân hàng theo bốn tiêu chí cơ bản: (1) chất lượng trong hoạt động giám sát của ban điều hành và quản trị cấp cao; (2) tính đầy đủ các chính sách cũng như các giới hạn liên quan đến các hoạt động chứa đựng rủi ro trọng yếu; (3) chất lượng của hệ thống đánh giá và kiểm soát rủi ro; (4) có các hệ thống kiểm soát nội bộ đầy đủ để ngăn ngừa hành vi phạm pháp hay không được cho phép của nhân

viên 27. Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính cần có những hướng dẫn cụ thể

cho các ngân hàng trong việc quản trị rủi ro lãi suất, trong đó yêu cầu ban điều hành ngân hàng phải xác định mức rủi ro cho phép tối đa, chỉ định nhân sự quản trị, kiểm soát rủi ro. Đồng thời, dựa vào mức độ tham gia rủi ro của các ngân hàng, các cơ quan quản lý có thể tính toán ra mức dự trữ bắt buộc phù hợp để yêu cầu các ngân hàng thực hiện.

d. Yêu cầu về công bố thông tin


27 Frederic S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial markets,

Pearson Addison Wisley, 348 - 349, New York, USA.

Do tình trạng những người sử dụng thông tin ăn theo một cách miễn phí (free-rider problem) nên các cá nhân hay tổ chức gửi tiền sẽ không có động cơ để tự sản xuất thông tin riêng biệt về chất lượng tài sản của ngân hàng. Để đảm bảo rằng những người gửi tiền nói riêng và thị trường nói chung nắm được nhiều thông tin hơn, các nhà quản lý có thể yêu cầu các ngân hàng tuân thủ những nguyên tắc kế toán chuẩn mực, công bố nhiều thông tin giúp cho thị trường có thể đánh giá chất lượng các tài sản trong danh mục đầu tư của ngân hàng, và công bố mức độ rủi ro mà ngân hàng đang tham gia. Càng nhiều thông tin được cung cấp cho công chúng thì các cổ đông, người đi vay, người gửi tiền càng dễ dàng đánh giá và giám sát ngân hàng, ngăn chặn các hành vi rủi ro của ngân hàng. Những ước tính về rủi ro tài chính do hệ thống quản trị rủi ro nội bộ của bản thân các hãng có thể được sử dụng vào mục đích công bố cho công chúng28. Như vậy, bên cạnh việc công bố Bảng cân đối kế toán và Báo cáo doanh thu thu nhập mà các ngân hàng sẽ phải cung cấp thêm thông tin về mức độ rủi ro tham gia và

tình hình quản lý rủi ro.

2. Trên thị trường chứng khoán

2.1. Tăng cường hoạt động giám sát Nhà nước đối với thị trường chứng khoán

TTCK phát triển bùng nổ trong thời gian qua khiến các cơ chế giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là ủy ban chứng khoán Nhà nước chưa theo kịp. Sự phát triển bùng phát của TTCK từ cuối nă m 2006 đến nay dường như vượt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Thực tế là cơ quan này (bao gồm Thanh tra UBCKNN) còn quá non trẻ, chưa thể có


28 Eurocurrency Standing Committee of Central Banks of Group of Ten countries (Fisher Group), 9/1994, “Discussion Paper on Public Disclosure of Markets and Credit risks by Financial Intermediaries.

đủ các điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có hiệu quả trước hết là TTCK có tổ chức. Ngoài ra, thị trường OTC cũng đang hoạt động tự phát, chưa được quản lý và bảo vệ, không có cơ chế hoạt động hiệu quả, công bằng và trật tự, cũng không có được sự minh bạch như ở Sở/ Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Các quy định về TTCK không được áp dụng bên ngoài Sở/Trung tâm Giao dịch chứng khoán có tổ chức. Do vậy, UBCKNN chưa có khả năng quản lý TTCK không chính thức. Thiếu một hệ thống báo cáo và công bố thông tin giao dịch minh bạch, vấn đề giá cả trở nên không rõ ràng. Năng lực tài chính, chuyên môn và năng lực hoạt động của các nhà môi giới không được kiểm chứng cũng không được giám sát, và thông tin về tổ chức phát hành không được xác minh...

Trước tình hình như vậy, Chính phủ mới đây đã yêu cầu BTC và UBCKNN phải tăng cường quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để bảo đảm cho thị trường phát triển theo đúng định hướng đã đặt ra, phát huy những mặt tích cực, sử dụng các biện pháp phù hợp, hữu hiệu, hạn chế tối đa những mặt tiêu cực đối với thị trường, tuyệt đối không để xảy ra những biến động đột biến vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trong quá trình quản lý TTCK, cần đặc biệt lưu ý: (i) Phải kiểm soát bằng được luồng vốn đầu tư vào TTCK (thông qua các biện pháp: Đăng ký, lưu ký tập trung, đầu tư ủy thác qua công ty quản lý quỹ, kiểm soát ngoại hối, thuế thu nhập...); (ii) Tăng cường tính công khai, minh bạch trên TTCK, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng lừa đảo, đầu cơ và các biểu hiện tiêu cực trong việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp; (iii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động của các Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ, Công ty niêm yết và các quỹ đầu tư chứng khoán để đảm bảo các hoạt động này đúng pháp luật, công khai, minh bạch.

2.2. Tăng cường các quy định pháp lý về công bố thông tin

TTCK là một thị trường hết sức nhạy cảm với thông tin. Một thông tin được công bố không chính xác, không trung thực hoặc không kịp thời có thể dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm của nhà đầu tư. Vấn đề thông tin bất cân xứng không chỉ ảnh hưởng tới từng cá nhân riêng lẻ mà có thể ảnh hưởng đến cả TTCK và nền kinh tế. Theo Ayumi Konishi, Trưởng đại diện thường trú của Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) tại Hà Nội, phát biểu trong hội nghị các nhà đầu tư nước ngoài do VinaCapital tổ chức vào tháng 10/2007 ở Tp.HCM: TTCK Việt Nam đang cần một nhạc trưởng giữ nhịp điệu và luật chơi. Chính nhạc trưởng sẽ đẩy nhanh hơn nữa quá trình minh bạch hóa, đặc biệt minh bạch hóa thông tin vốn đang rất thiếu”

Nhạc trưởng của thị trường hiện nay, không ai khác, chính là Nhà nước. Chính vì vậy, một giải pháp quan trọng hàng đầu để hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng chính là tăng cường minh bạch hóa thông tin trên toàn bộ thị trường thông qua sự can thiệp của Nhà nước dưới các hình thức pháp lý.

Vừa qua, ngày 18/04/2007, bộ Tài chính đã ban hành thông tư số 38/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK. Theo đó, Thông tư quy định đối tượng được phép công bố thông tin là những công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ chức niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, và các cá nhân liên quan.

Bộ Tài chính cũng quy định việc công bố thông tin phải đầy đủ, chính xác, kịp thời theo qui định của pháp luật. Thông tin phải do Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc hoặc người được uỷ quyền công bố thông tin thực hiện và

phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin công bố cũng như phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán về nội dung thông tin công bố ngay cùng thời điểm công bố thông tin. Bất kỳ người nào công bố thông tin làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán thì người được uỷ quyền công bố thông tin phải xác nhận hoặc đính chính thông tin đó trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thông tin trên được công bố. Việc thực hiện công bố thông tin được thực hiện qua báo cáo thường niên, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm khác của tổ chức thuộc đối tượng công bố thông tin.

Trong thời hạn mười 10 ngày, kể từ ngày có báo cáo tài chính năm được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về báo cáo tài chính năm. Ngày hoàn thành báo cáo tài chính năm được tính từ ngày tổ chức kiểm toán được chấp thuận ký báo cáo kiểm toán với thời hạn hoàn thành báo cáo tài chính năm chậm nhất là chín mươi (90) ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Báo cáo tài chính năm, Báo cáo Thường niên của công ty đại chúng phải lưu trữ ít nhất 10 năm tại trụ sở chính của tổ chức để nhà đầu tư tham khảo. Trong trường hợp Tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả; Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành lập, giấy phép hoạt độngthì công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn hai mươi bốn 24 giờ, kể từ khi xảy ra các sự kiện trên và phải công bố trong thời hạn 72 giờ nếu công ty vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực có trở lên hoặc Công ty nhận được thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp

Thông tư trên ra đời vào thời điểm TTCK đang rất cần một sự can thiệp từ phía Nhà nước để chấm dứt tình trạng thông tin bất cân xứng. Thông

tư đã quy định khá rõ về nghĩa vụ công bố thông tin trên TTCK, hạn chế đáng kể tình trạng bưng bít thông tin, tăng trách nhiệm về thông tin công bố của doanh nghiệp và những người được ủy quyền công bố thông tin, và trở thành văn bản hướng dẫn rất kịp thời, hữu ích đối với các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, bên cạnh việc cụ thể hóa các văn bản pháp lý, việc nâng cao kỷ luật thi hành cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Hiện nay, chế tài cho lỗi vi phạm về công bố thông tin còn khá nhẹ, chỉ mang tính giơ cao đánh khẽ, chưa đủ sức răn đe, khiến tình trạng vi phạm vẫn xảy ra thường xuyên. Do đó Nhà nước, bên cạnh việc ban hành các văn bản hướng dẫn cần có những chế tài, biện pháp cưỡng chế thi hành cứng rắn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, nâng cao tính minh bạch và lành mạnh của thị trường.

2.3. Nâng cao hiệu quả của các công ty định mức tín nhiệm (Credit Rating Agency)

Credit rating – tức là định mức tín nhiệm hay hệ số tín nhiệm - là hệ số đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối với các khoản tiền nghĩa vụ - gốc và lãi - của các các công cụ nợ mà nó phát hành. Công cụ nợ bao gồm cả công cụ ngắn hạn như như hối phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Tổ chức phát hành có thể là chính phủ cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, hay các công ty.

Định mức tín nhiệm xuất hiện từ trước thế kỷ trước tại Mỹ do nhu cầu đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Đến năm 1914 thì công ty Moody’s - tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm đầu tiên trên thế giới được ông John Moody thành lập dựa vào một công ty được ông thành lập trước đó vào năm 1909. Năm 1941 tổ chức Standard and Poors được thành

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 12/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí